Wednesday, September 16, 2009

Ngụy Văn Thà

Thủ Khoa Hải Quân

Ngụy Văn Thà xuất thân khoá 12 Sĩ quan Hải quân Nha Trang. Hạm Phó Tuần Dương Hạm Ngô Quyền HQ17, trước khi thuyên chuyển qua làm Hạm Trưởng Hộ Tống Hạm Nhật Tảo HQ10, để rồi hy sinh trong trận hải chiến.Thân xác ông, vị Hạm Trưởng đã chìm theo chiến hạm ngoài khơi Hoàng Sa.
Mai sau tên ông sẽ còn được biết đến mãi để nhắc nhở mọi người "Hoàng Sa muôn đời phải là cuả Việt Nam"

NGƯỜI ANH HÙNG HỌ NGỤY

Người yêu nước không thể nào là ngụy
Người chết vì nước như anh không thể nào là ngụy
Nhưng anh :
Là Ngụy Văn Thà (*)

Anh- hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo
Lao thẳng vào tàu giặc cướp
Tên anh còn mãi với Hoàng Sa
Biển vật mình thét đại bác
Giặc bủa vây chiến dịch biển người

Lửa dựng trời dìm tàu giặc
Máu anh cùng đồng đội ngời ngời
Ôm chặt tàu
Ôm chặt đảo
Anh hóa thành Tổ Quốc giữa trùng khơi

Gió mùa đông bắc gào khóc
Ngụy Văn Thà
Mãi mãi neo tàu vào quần đảo
Tổ Quốc ngoài Hoàng Sa
Trận chiến ba mươi phút
Tượng đài anh là phong ba
Đỉnh sóng khói hương nghi ngút
Biển để tang anh bằng sóng bạc đầu



Quần đảo nhấp nhô mộ phần liệt sĩ
Linh hồn anh hú gọi đất liền
Ngụy Văn Thà
Tên anh không phải bài ca
Tên anh là lời thề độc :
- Phải giành lại Hoàng Sa
Sóng vẫn vồ lấy đảo…

Sài Gòn 15-9-2009
Trần Mạnh Hảo

(*) Ghi chú : Theo báo Tuổi Trẻ ra ngày 14-9-2009 : liệt sĩ thiếu tá Ngụy Văn Thà hạm trưởng chiến hạm Nhật Tảo HQ-10 của hải quân Việt Nam Cộng Hòa và đồng đội đã anh dũng hi sinh bảo vệ đảo Hoàng Sa ( cùng các chiến hạm khác : HQ-4,HQ-5,HQ-16) trong trận hải chiến đẫm máu với tàu Trung Quốc xâm lược ngày 19-01-1974


Phóng sự - Ký sự
Thứ Ba, 08/09/2009, 06:31 (GMT+7)

Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau

TT - Hơn 35 năm trước, những người con đất Việt đã nhận lệnh vượt trùng dương ra quần đảo Hoàng Sa canh giữ biển trời Tổ quốc. Họ tự hào ra đi trong tâm thế của người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Bây giờ nhắc lại, mắt họ rưng rưng, tim họ nghẹn lại khi Hoàng Sa vẫn còn trong tay nước ngoài.

Quân đồn trú Pháp - Việt chào cờ trên đảo Hoàng Sa

Từ số báo này, Tuổi Trẻ đăng tải hồi ức của những người từng canh giữ biển trời Hoàng Sa 35 năm trước. Thời gian dài trôi qua, nhưng những gì tận mắt họ chứng kiến, những gì họ trực tiếp tham gia không thể phai mờ trong tâm trí.

Kỳ 1:

Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng


Ông Nguyễn Văn Đức
Cách nay đúng 40 năm, ông Nguyễn Văn Đức đã cùng các cộng sự vượt trùng dương đến với Hoàng Sa. Nhiệm vụ của ông là canh giữ biển trời Tổ quốc với chức vụ là đảo trưởng theo lệnh của Bộ chỉ huy biệt khu Quảng Đà. Lúc đó ông vừa tròn 22 tuổi, là một trong những đảo trưởng trẻ nhất từng làm nhiệm vụ trấn giữ tại quần đảo Hoàng Sa.

1. Mái đầu ông Nguyễn Văn Đức đã điểm muối tiêu của tuổi ngoài 60. Hỏi ngày nào đáng nhớ trong cuộc đời của mình, ông trả lời không chút đắn đo: “Đó là ngày 14-10-1969, tôi nhận được tờ sự vụ lệnh biên chế về trung đội Hoàng Sa ra đảo làm nhiệm vụ dưới chức danh đảo trưởng”.

Buột miệng hỏi ông về những lo lắng trước lúc lên đường làm nhiệm vụ, ông phản ứng: “Tại sao phải lo lắng? Đó là đất của cha ông mình để lại, là máu mủ thân yêu của Tổ quốc nên chúng tôi ra đi như lẽ bình thường, hiển nhiên. Chẳng có chút gì phải lo sợ khi chúng tôi đi trong tâm thế của một người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Khi đó quần đảo Hoàng Sa thuộc quyền kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, thuộc về người Việt, đó là sự thật lịch sử không thể chối cãi”.

Một ngày cuối tháng 10-1969, ông Đức cùng trung đội Hoàng Sa gồm 34 người và bốn nhân viên khí tượng rời cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) lên đường làm nhiệm vụ. Sau hơn 24 giờ lênh đênh trên biển, Hoàng Sa thân yêu hiện dần lên trước mắt ông.

Ông Đức nhớ lại: “Lúc đầu biển khá êm, nhưng khi rời đất liền được khoảng hơn 100km thì sóng lớn dần. Từ xa Hoàng Sa hiện lên giữa nền xanh của đại dương. Bao bọc quanh Hoàng Sa là những rạn san hô rộng lớn, vì thế chúng tôi không thể cặp tàu vào được mà phải dùng canô để chuyển quân và quân trang vào đảo. Trên đảo có một tòa nhà lớn được xây dựng từ thời Pháp thuộc, cao khoảng 8m, tường dày 2m dành cho đảo trưởng.

Trong phòng làm việc của đảo trưởng có một bức tường ghi tên tất cả những người lính đã ra đây giữ đảo. Và tên của chúng tôi đã được ghi lên đó, đó là niềm vinh dự lớn lao của một người con đất Việt. Xung quanh đảo là những rừng cây, tuy không to lớn nhưng cũng đủ để che chắn nắng gió cho lính đảo. Hình ảnh lần đầu tiên đặt chân lên mảnh đất tuyệt đẹp của Tổ quốc nơi xa đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ y nguyên. Xúc động lắm”.

2. Ông Nguyễn Văn Đức kể: “Nhiệm vụ của chúng tôi là đo đạc, báo cáo về sở chỉ huy ở đất liền những tin tức ở Hoàng Sa mỗi ngày. Anh em khí tượng làm nhiệm vụ quan trắc và báo cáo tình hình thời tiết để phục vụ cho tàu bè lưu thông trong vùng. Trang bị vũ trang lúc ấy không nhiều, chỉ có hai khẩu đại liên 50mm nhưng anh em vẫn kiểm soát được toàn bộ quần đảo Hoàng Sa. Tàu bè quốc tế ngang qua đều tôn trọng chủ quyền của chúng ta, và chúng ta cũng sẵn sàng hỗ trợ tàu bè khi gặp bão tố. Những lúc rảnh rỗi chúng tôi thường dùng canô đi qua các đảo lân cận để chơi vì cảnh quan ở đây rất hữu tình. Đảo Cát, đảo Chim, đảo Elbe, đảo Duncan, đảo Drumond... chúng tôi đều đã đặt chân đến”.

Tờ sự vụ lệnh quyết định điều chuẩn úy Nguyễn Văn Đức làm đảo trưởng Hoàng Sa tháng 10-1969 trong đợt thay quân thứ 38 của quân đội chính quyền Sài Gòn tại Hoàng Sa - Ảnh: Thế Anh

Trầm ngâm nhớ lại những ngày tháng gắn bó với mảnh đất xa xôi của Tổ quốc, cựu chuẩn úy Nguyễn Văn Đức kể tiếp: “Khi thủy triều xuống, cả rạn san hô hiện lên tuyệt đẹp như một rừng hoa biển. Mỗi khi nhớ đất liền, anh em lại lấy vài cành san hô bỏ vô chậu, bắt vài con cá nhỏ ngồi ngắm nghía bên tách cà phê đen. Có sống ở đảo mới thấy nhớ đất liền, yêu quê cha đất tổ. Thời tiết ở đây khá ôn hòa nhưng gió mạnh lắm, nhiều khi anh em bị gió đẩy ngã sóng soài. Tuy vất vả, thiếu thốn nhưng anh em thấy vui và hãnh diện khi được trấn giữ biển đảo quê nhà”.

Ông nói có hai di tích ở đảo Hoàng Sa ông không thể nào quên. Đó là cái miếu nhỏ ở góc đảo mà anh em lính đảo vẫn thường ra đó để tìm chút an bình giữa sóng gió.

Ông kể: “Mỗi khi sóng to gió lớn hay thấy lòng bất an, anh em chúng tôi thường tìm đến ngôi miếu. Lạ lắm, chỉ cần ngửi thấy mùi nhang khói là cảm giác ở xa đất liền như được gần lại. Hơn nữa, mùi nhang khói như gợi lên những tiềm thức về quê cha đất tổ, nhớ về nguồn cội. Đó là những điều cần thiết để những người con đất Việt như chúng tôi yên lòng nơi đầu sóng ngọn gió giữ gìn biển đảo của cha ông để lại. Cạnh đó là một nghĩa trang có hơn 30 ngôi mộ là hài cốt của những chiến sĩ người Việt ngã xuống vì bệnh tật nơi đảo xa, là nắm xương của những người con Việt đã nằm xuống sau những lần đụng độ với âm mưu xâm lược của ngoại bang.

Ở đó còn có cả hài cốt của những ngư dân từ miền Trung, miền Bắc gặp nạn trên đường mưu sinh. Và cũng có cả những nắm xương của lính nước ngoài bị chúng ta hạ gục khi âm mưu đánh chiếm đảo. Có một điều là chúng tôi không phân biệt địch ta khi họ đã ngã xuống, mỗi ngày rằm hay cuối tháng chúng tôi đều thắp nhang lên những nấm mồ hoang. Có lẽ đó là một nét đặc biệt của người Việt mình, là một hành xử đầy tính nhân văn, “lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn” mà mỗi người Việt chúng ta còn lưu giữ được từ dòng máu Lạc Hồng!”.


Bia chủ quyền VN ở Hoàng Sa được dựng vào những năm 1930 (ảnh chụp tại phòng lưu trữ tư liệu Hoàng Sa, Đà Nẵng)

3. Ngày 19-1-1974, ngày quân Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm Hoàng Sa - một phần máu xương của Tổ quốc VN, là ngày ông Đức cảm thấy đau đớn nhất trong cuộc đời mình. Ông xúc động kể lại: “Khi hay tin Hoàng Sa bị quân Trung Quốc tước đoạt bằng vũ lực, tôi đau đớn đến mức nước mắt không thể chảy được, lòng dạ như ai xát muối. Tôi biết ngoài kia những đứa con của đất Việt sẽ phải đổ máu vì quê hương. Tôi đau vì một mảnh đất tuyệt đẹp và giàu có của nước nhà đã bị ngoại bang vô cớ cướp đoạt. Đó là nỗi đau của một người con đất Việt!”.

Là một người từng học và hiểu biết về luật quốc tế, ngay trong ngày Hoàng Sa bị chiếm đó ông đã âm thầm lục tìm lại những tài liệu liên quan, gói ghém cẩn thận nhằm làm bằng chứng chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa. Đó là tờ sự vụ lệnh đã nhàu nát và úa vàng vì thời gian.

35 năm sau, ông Đức quyết định liên hệ với chính quyền và báo Tuổi Trẻ để cung cấp những bằng chứng quý báu đó. Có lẽ những ai quen biết ông đều không mấy khó hiểu về hành động yêu nước của ông khi biết trong ngày 30-4-1975, ông đã từng xuống tàu để rời Việt Nam, nhưng trong một tích tắc của thời khắc lịch sử ông đã nhảy lại lên bờ, bởi ông biết không nơi đâu bằng quê hương.

Ông Đức lần giở lại tờ sự vụ lệnh năm nào rồi nói: “Chừng nào Hoàng Sa vẫn còn trong tay ngoại bang thì niềm vui vẫn chưa thể gọi là trọn vẹn được. Tôi sợ rằng lớp trẻ sẽ quên mất Hoàng Sa, sẽ quên mất một phần máu thịt của Tổ quốc, sẽ quên mất rằng có rất nhiều người con của đất Việt đã ngã xuống vì Hoàng Sa trong ngày đáng nhớ 19-1-1974”. Có lẽ đó không chỉ là điều trăn trở của riêng ông.


Phóng sự - Ký sự
Thứ Tư, 09/09/2009, 16:05 (GMT+7)

Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau - Kỳ 2: Biển động


Ông Lữ Công Bảy

TT - Tác giả câu chuyện này là người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước: ông Lữ Công Bảy - quân nhân trên chiến hạm Trần Khánh Dư HQ-4. Sau ngày giải phóng 1975, ông Bảy vẫn ở lại VN, phục vụ trong lực lượng hải quân quân đội nhân dân VN. Hiện ông là nhân viên bảo vệ của Đài truyền hình VN tại TP.HCM.

Kỳ 1: Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng

Khi tôi ghi lại những dòng hồi ký này, sự việc đã xảy ra 35 năm (1974 - 2009). Đã 35 năm trôi qua, những gì tận mắt tôi đã chứng kiến, những gì tôi đã trực tiếp tham gia trong trận hải chiến với hải quân Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa ngày 19-1-1974 vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi.

Lúc bấy giờ tôi là thượng sĩ giám lộ (giám sát lộ trình - hàng hải) trên khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 (chiến hạm tối tân nhất của hải quân Sài Gòn thời bấy giờ) với chức danh hạ sĩ quan phụ tá trưởng ngành giám lộ, kiêm hạ sĩ quan phụ tá trưởng khối hành quân.

Với chức danh đó, lúc nào (trong nhiệm sở tác chiến hay hải hành) tôi đều phải có mặt thường xuyên trên đài chỉ huy, thường xuyên bên hạm trưởng Vũ Hữu San (trung tá hải quân). Nhiệm vụ của anh em chúng tôi là ghi lại nhật ký tác chiến, nhật ký hàng hải, xác định vị trí của chiến hạm, đồng thời nhận và chuyển những tài liệu bằng đèn và cờ.

Hôm ấy, ngày 16-1-1974, gió mùa đông bắc thổi mạnh trên biển Đông. Biển động mạnh. Chiến hạm chúng tôi đang tuần tiễu vùng biển Quảng Ngãi từ Sa Huỳnh đến cù lao Ré (đảo Lý Sơn). Đây đã là ngày thứ 14 lênh đênh trên biển. Chỉ còn một ngày nữa chiến hạm sẽ được về Đà Nẵng nghỉ bến, anh em thủy thủ đoàn rộn ràng nghĩ đến ngày được vào đất liền.

Chưa kịp dùng cơm trưa thì từ trung tâm truyền tin đưa lên đài chỉ huy một công điện thượng khẩn: lệnh cho tàu về ngay Đà Nẵng. 17 giờ tàu về đến quân cảng Đà Nẵng (cảng Tiên Sa). Hạm trưởng San và đại úy Diên - trưởng khối hành quân, được lệnh lên họp khẩn cấp ở trung tâm hành quân Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải. Từ trung tâm hành quân, hạm trưởng điện về tàu lệnh cho ban ẩm thực lên bờ đi chợ (tiếp tế lương thực).

20 giờ hạm trưởng San về tàu. Lệnh cấm trại 100% được ban ra. Ban cơ khí chuẩn bị bắt ống để nhận dầu và nước ngọt. Đến 21g, hai chiếc xe GMC chở một trung đội với đầy đủ vũ khí đạn dược xuất hiện. Lần đầu tiên trước mắt tôi được chứng kiến một toán quân mặc quân phục lạ lùng. Sau một hồi dọ hỏi tôi mới biết đây là lực lượng biệt hải. Tôi được lệnh từ đại úy Diên chuẩn bị hải đồ đi Hoàng Sa. 23g, tàu khẩn cấp rời cảng Tiên Sa trực chỉ Hoàng Sa. Tôi cảm giác có một chuyện gì lớn lao sắp xảy ra.

Ngày N+1

11g30 ngày 17-1, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã có mặt tại quần đảo Hoàng Sa. Trước đó ngày 16-1, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 do hải quân trung tá Lê Văn Thự làm hạm trưởng cũng đã có mặt tại Hoàng Sa.

HQ-4 tiến gần đảo Vĩnh Lạc. Còi tác chiến vang lên, tất cả thủy thủ đoàn đã sẵn sàng ở vị trí chiến đấu. 14 giờ, trung đội biệt hải được lệnh rời tàu trên ba xuồng cao su, 20 phút sau trung đội biệt hải đã đổ bộ lên rìa đảo an toàn và nhận lệnh tiến sâu vào đảo lục soát.

Báo cáo từ đoàn quân gửi về: không phát hiện gì ngoài vài nấm mộ hình như mới đắp, không có bia, chỉ có cọc gỗ và bảng gỗ đóng trước đầu mộ ghi bằng chữ Trung Quốc với ngày sinh và ngày chết hàng mấy chục năm về trước.

Các chiến sĩ biệt hải được lệnh đào bới các nấm mộ giả lên, hóa ra chẳng thấy xương cốt gì cả. Đây là những nấm mộ ngụy tạo mà ai đó đã dựng lên để chứng tỏ có người Trung Quốc đã sống và chết trên đảo mà thôi. 16g30, lực lượng biệt hải được lệnh rút về tàu.

Đến buổi chiều, phòng chiến báo theo dõi qua hệ thống rađa tầm xa đã phát hiện hai mục tiêu trên biển đang di chuyển đến quần đảo Hoàng Sa. Từ nóc đài chỉ huy, các bộ phận quan sát bằng ống nhòm đã nhìn thấy hai tàu chiến lạ. Trung tâm chiến báo được lệnh theo dõi và báo cáo thường xuyên mọi hoạt động, hướng đi, khoảng cách của hai tàu trên.

Đêm 17 rạng 18-1 là một đêm cực kỳ căng thẳng. Còi nhiệm sở tác chiến báo động suốt đêm. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải Hoàng Sa. Tàu HQ-4 và HQ-16 dùng tín hiệu cảnh cáo: Đây là lãnh hải của Việt Nam. Yêu cầu các ông hãy rời khỏi đây ngay! Phía Trung Quốc đáp trả, cho rằng Hoàng Sa là của họ.



Tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc chặn đường tàu VN trên đường ra Hoàng Sa

Ngày N+2

Sáng 18-1, chiến hạm HQ-4 của chúng tôi tiến về đảo Cam Tuyền. Lúc 8g, trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ lên đảo. Sau khi lục soát chỉ phát hiện những nấm mộ mới đắp không hài cốt y như ở đảo Vĩnh Lạc.

Đến 11g, đài khí tượng và quân đồn trú đảo Hoàng Sa báo cáo có hai tàu đánh cá vũ trang mang cờ Trung Quốc xâm nhập và tiến gần đến đảo Hoàng Sa, tàu HQ 4 và HQ 16 được lệnh tiến về đảo Hoàng Sa. Khi tiến đến gần tàu đánh cá vũ trang của Trung Quốc, tàu HQ-4 dùng tín hiệu cảnh cáo và đuổi đi nhưng cả hai tàu Trung Quốc cố tình khiêu khích.

Tàu HQ-4 tiến thẳng đến một tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc. Trên tàu có khoảng 30 thuyền viên mặc đồng phục màu xanh dương đậm. Tàu được trang bị hai thượng liên (một đằng trước mũi và một đằng sau lái tàu), ngoài ra có rất nhiều súng AK 47. Tàu HQ-4 quyết định áp sát mạn tàu đánh cá Trung Quốc để xua đuổi.

Hai bên đánh nhau bằng... võ mồm. Thấy không tác dụng, tàu HQ-4 lùi ra dùng mũi tàu ủi thẳng vào tàu Trung Quốc, mũi tàu HQ-4 và neo mũi vướng vào cửa và hành lang phòng lái làm gãy hành lang và cong cửa phòng lái của tàu Trung Quốc. Trước thái độ cương quyết của hải quân VN, họ vội vàng tháo lui. Chiến hạm HQ-16 cũng quyết liệt xua đuổi tàu đánh cá vũ trang còn lại.

Cũng trong sáng 18-1, tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 do trung tá hải quân Phạm Trọng Quỳnh làm hạm trưởng được lệnh tăng cường ra Hoàng Sa. Cùng đi trên HQ-5 có đại tá Hà Văn Ngạc, được giao nhiệm vụ chỉ huy trưởng lực lượng bảo vệ Hoàng Sa. Ngoài ra, đi theo tàu có một trung đội người nhái (lực lượng đặc biệt của hải quân).

Lúc 15g30 chiều 18-1, lệnh đại tá Ngạc cho ba chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-16 sắp đội hình hàng dọc tiến thẳng về đảo Duy Mộng. Khoảng 16g, có hai tàu chiến Trung Quốc bắt đầu khiêu khích, cắt đường ngang mũi HQ-4 và HQ-16. Đội hình bị chia cắt không thể tiến lên được vì các tàu rất gần nhau, các khẩu đại bác sẵn sàng nhả đạn nhưng không ai được lệnh nổ súng.

Đêm 18 rạng ngày 19-1, tàu chiến và tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc vẫn tiếp tục khiêu khích, tiến đến gần đảo Hoàng Sa. Chiến hạm HQ-4 phải dùng còi hơi thật to và đèn hồ quang trên nóc đài chỉ huy rọi thẳng vào đội hình tàu Trung Quốc. Tình hình dịu hơn khi tàu Trung Quốc rút lui về hướng bắc.

Đến nửa đêm, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 do thiếu tá hải quân Ngụy Văn Thà làm hạm trưởng đã ra chi viện cho lực lượng bảo vệ Hoàng Sa.

LỮ CÔNG BẢY (còn tiếp)

Phóng sự - Ký sự
Thứ Hai, 14/09/2009, 10:00 (GMT+7)

Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau: 30 phút và 35 năm

TT - Cả ngày 17 và 18-1-1974, biển Đông dậy sóng. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải phía tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Đến nửa đêm 18-1, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện. Đêm ấy, bầu trời Hoàng Sa tối đen như mực, một đêm cực kỳ căng thẳng.


Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16, tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 đã có mặt ở đó chuẩn bị tình huống đối phó.

Ông Lữ Công Bảy, người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước trong vai trò là thượng sĩ giám lộ trên chiến hạm HQ-4, tiếp tục thuật lại câu chuyện “Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau” (Tuổi Trẻ ngày 8 và 9-9-2009).

>> Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau - Kỳ 1: Hoàng Sa trong ký ức một đảo trưởng
>> Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau - Kỳ 2: Biển động

Ngày N+3

Lúc 6g sáng 19-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Không một tàu chiến nào của Trung Quốc phát hiện được HQ-4 và tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5.


Sơ đồ các hướng tấn công trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974


Khi gần đến đảo, bằng ống nhòm và mắt thường từ đài chỉ huy, chúng tôi đã phát hiện doanh trại mới toanh và cột cờ có cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng, HQ-4 trong một chuyến khảo sát quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đã không phát hiện gì ngoài chai lọ trôi tấp lên bãi cát). Chúng tôi hiểu rằng quân Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo. Hai mươi phút sau, lực lượng biệt hải đổ bộ lên đảo (mặt đông nam). Lực lượng đổ bộ cắm cờ Việt Nam lên bờ cát và hốc đá, rồi khẩn cấp tiến vào bên trong đảo.

Trong khi đó, lực lượng người nhái vẫn còn ngoài xa chưa vào được vì HQ-5 không thể vào sát bờ, gió mùa đông bắc thổi khá mạnh, các xuồng cao su bị sóng gió giật dữ dội không vào bờ được. HQ-5 phải thả tàu cứu hộ xuống để kéo các xuồng cao su vào. Từ đài chỉ huy, bộ phận quan sát chúng tôi đã phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân đông đảo lên phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc ồ ạt vào đảo rất nhanh vì xuôi gió.



Khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 - một trong bốn tàu tham gia trận hải chiến Hoàng Sa năm 1974 - Ảnh tư liệu


Thế rồi báo cáo bất lợi dồn dập gửi về đài chỉ huy tàu HQ-4. Một số đông quân Trung Quốc nấp sau các tảng đá chĩa thẳng mũi súng vào đội hình biệt hải. Trên mặt biển lúc ấy, chúng tôi thấy tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 và hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đang tiến về rìa tây nam đảo, theo sau là bốn tàu chiến Trung Quốc đang tiến vào đội hình của ta. Tình hình bắt đầu căng thẳng, báo hiệu một trận đụng độ sinh tử không thể nào tránh khỏi. Trong khi đó ở phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc tiếp tục cho đổ người ồ ạt lên đảo của ta.

Và họ nổ súng trước. Vào lúc 8g30, một loạt đạn đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.

Lệnh nổ súng

Lúc đó, sát bên tàu HQ-4 của chúng tôi đã xuất hiện hai tàu chiến Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 li và nhiều đại bác 37 li. Các họng súng đại bác Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4.

* Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa do VN quản lý, ngày 19-1-1974 và 14-2-1974 chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên cáo về việc Trung Quốc “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” và tái khẳng định về chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa.

* Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng sa.

* Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN cũng đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của VN.

* Sau ngày miền Nam giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của VN. Và ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam VN đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa - Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền VN, từ trước đến nay đều do người VN quản lý.

B.T.


Các tín hiệu bằng đèn hiệu được liên tục chuyển đến HQ-4. Chúng tôi nhận những tín hiệu từ tàu Trung Quốc và trình cho hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San. Nghe xong một nội dung cực kỳ khiêu khích từ tàu Trung Quốc, hạm trưởng San tức thì đỏ mặt, quát tháo ầm ĩ. Quay sang chúng tôi, ông ra lệnh không nhận tín hiệu từ tàu Trung Quốc nữa.

Vào thời điểm hết sức căng thẳng này, khi trận chiến sắp nổ ra, việc thông tin liên lạc giữa lực lượng bảo vệ Hoàng Sa và Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải thường xuyên bị đứt. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống bộ đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa. Đại tá Hà Văn Ngạc, lúc đó đang ở trên chiến hạm HQ-5, được giao toàn quyền hành động (lệnh khai hỏa đã được truyền đi từ Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải trước đó. Nhưng một hồi lâu sau, quyết định nổ súng mới được thực hiện sau cuộc điện đàm giữa đại tá Ngạc và tư lệnh hải quân vùng 1 Hồ Văn Kỳ Thoại - B.T.).

Đại tá Ngạc ra lệnh: Tất cả đại bác đều phải hướng lên đảo. Khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa lên đảo, dọn đường lập đầu cầu để biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm đảo. Đó là lệnh từ soái hạm chỉ huy HQ-5. Nhưng hạm trưởng Vũ Hữu San đã bực bội trước lệnh này. Trước khi chuẩn bị nổ súng, đại tá Hà Văn Ngạc có hỏi ý kiến từng hạm trưởng.

Đến khi hỏi ý kiến HQ-4, hạm trưởng Vũ Hữu San gằn từng tiếng trong bộ đàm: “Trình đại bàng, tôi là quân nhân, tôi chấp hành quân lệnh nhưng hiện nay nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố bất ngờ, muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển trước khi tính đến việc đổ quân, hiện nay số tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng đến giờ đầy trên đảo, ta chỉ có hai trung đội thì làm sao thành công được?”. Rồi hạm trưởng San nói tiếp: “Tôi là quân nhân, tôi chấp nhận hi sinh vì Tổ quốc, nhưng...”.

Ông cúp máy và ra lệnh: “Tất cả khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch!”.

Quyết liệt

Đúng 10g20, bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng Vũ Hữu San ra lệnh “bắn”. Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.

Chiến hạm HQ-4 chạy uốn lượn như con rắn, hết sang phải lại sang trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác của đối phương. Thế rồi các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Roa đang cố gắng theo dõi tàu Trung Quốc qua màn hình rađa. Thượng sĩ nhất giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.


Tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 - Ảnh tư liệu

Tuy nhiên, chiến hạm HQ-4 vẫn vững vàng trong cuộc hải chiến. Đài quan sát trên nóc báo cáo có tàu Trung Quốc đang đuổi theo. Tôi nhìn ra phía sau vừa thấy hai tàu chiến Trung Quốc. Liền lúc đó từ mạn phải HQ-5 cắt đuôi HQ-4 rồi phóng thẳng vào hai tàu đối phương. Những khối cầu lửa từ mũi HQ-5 bắn ra (đại bác 127 li) bay thẳng vào tàu Trung Quốc. Một chiếc trúng đạn bốc cháy, một chiếc quay ngang và sau đó lãnh đủ hàng loạt đạn từ HQ-4.

Nhưng ngay lúc đó, thông tin từ HQ-5 cho biết ụ tháp đại bác 127 li của tàu này đã bị trúng đạn, ba quân nhân tử thương, hai bị thương nặng. HQ-4 vòng lại yểm trợ HQ-5. Không thấy tàu HQ-16 và HQ-10 đâu cả. Liên lạc mãi với hai tàu này vẫn không được.

Thật ra lúc ấy tàu HQ-10 đã bị thương nặng. Tàu này nhỏ, cũ kỹ, các khẩu đại bác xoay trở bằng tay nên bị trúng liền hai quả 100 li từ tàu Trung Quốc. Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất nặng.

HQ-4 và HQ-5 quay đầu về hướng nam. Sau đó một giờ không còn thấy HQ-5 ở đâu. HQ-5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục nên “rớt” lại đâu đó. Trên biển HQ-4 trở nên lẻ loi một mình. Đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, hạm trưởng Vũ Hữu San đã vẽ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.

Lúc này tôi mới rời được đài chỉ huy. Trên đường xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng... Hơn 130 binh sĩ bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn.

Nỗi đau còn lại

Khoảng 16g30, tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo: “Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”. Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động, không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này.

Tôi vào phòng hải đồ phía sau đài chỉ huy mệt lả và thiếp đi, đến khi thức dậy trời tối hẳn, trung sĩ nhất giám lộ Khiết cho biết tàu đang quay đầu về Đà Nẵng. Anh nói hạm trưởng San báo cáo thẳng với tư lệnh hải quân là HQ-4 không còn khả năng chiến đấu, lương thực cạn, cơ số đạn không còn đủ để tác chiến, các khẩu đại bác đều có trục trặc... Lệnh từ đất liền: các tàu quay về, hủy bỏ lệnh tấn công tái chiếm Hoàng Sa.

5g30 sáng 20-1 HQ-4 về đến cảng Tiên Sa, 9g tàu HQ-5 tiến vào vịnh Đà Nẵng. Lúc 12g30, tàu HQ-16 bị thương nặng, từ từ tiến vào vịnh với sự trợ giúp của hai tàu lai dắt biển.

Tối hôm đó, 20-1-1974, cũng là đêm 30 tết âm lịch, anh em chúng tôi được dự buổi liên hoan tất niên cuối năm theo truyền thống. Giữa mâm cao cỗ đầy nhưng ai nấy đều buồn bã, không thiết gì đến ăn uống. Mọi người vẫn hết sức lo lắng cho số phận đồng đội đang trôi giạt trên sóng biển giữa ngày tết thế này, lo lắng cho số phận anh em mắc kẹt lại các đảo. Ai cũng hồi tưởng trận hải chiến hôm qua và đau đớn trước một điều: dù đã cố gắng hết sức vẫn không giữ được mảnh đất thiêng liêng mà tổ tiên để lại.

Trận hải chiến Hoàng Sa chỉ kéo dài hơn 30 phút, nhưng nỗi đau ấy vẫn làm quặn thắt trái tim chúng tôi dù 35 năm đã trôi qua.

LỮ CÔNG BẢY

Theo các nhân chứng trên tàu Nhật Tảo HQ-10 còn sống sót, khi hộ tống hạm này sắp chìm, 28 thủy thủ đã được lệnh đào thoát bằng các phao bè. Họ đã trôi giạt trong sóng gió 78 giờ liền, và sáu người đã chết trên biển vì kiệt sức hoặc bị thương quá nặng, trong đó có hạm phó Nguyễn Thành Trí. Mãi đến chiều 22-1 họ mới được tàu dầu của Hãng Shell là Kopionella mang quốc kỳ Hà Lan cứu vớt. Lúc lên tàu, thêm một thủy thủ nữa qua đời vì kiệt sức.

B.T

Việt Báo Thứ Tư, 9/16/2009, 12:00:00 AM
Hoàng Sa Tử Chiến
Vi Anh

Năm 1972, ngày 07 tháng 07 năm 1972 là ngày Quân, Dân, Cán, Chính, Việt Nam Cộng Hòa toàn thắng trận An Lộc (Bình Long), sau 93 ngày đêm tử chiến với CS. Tổng Thống VNCH Nguyễn văn Thiệu quỳ trước nghĩa trang Biệt Kích Dù, ngậm ngùi cầu nguyện trước Anh Linh của 68 Chiến Sĩ Biệt Kích Dù và hàng ngàn các chiến sĩ thuộc các Quân Binh chủng đã chiến đấu cảm tử suốt 93 ngày đêm. Một cô giáo tên Pha trước đó cảm kích trước tinh thần tử chiến đã có hai câu thơ để đời:



"AN LỘC ĐỊA, SỬ GHI CHIẾN TÍCH, BIỆT KÍCH DÙ VỊ QUỐC VONG THÂN."


Năm 1974, 35 năm trước đây, ở vùng hải đảo Hoàng sa Quân Dân VNCH, đăïc biệt là Hải Quân VN, đã vì dân chiến đấu vì nước hy sinh, tử chiến với Hải Quân TC. Dù lúc bấy giờ đất nước và nhân dân VNCH bất hạnh bởi có một đồng minh bất nghĩa là chánh quyền Mỹ đã bỏ rơi VN. VN thân cô thế cô nhưng quyết một tấc đất cũng không nhường cho Trung Cộng. Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu kiêm Tổng Tư lịnh tối cao quân lực VNCH đích thân bay ra bộ tư lịnh hành quân xem xét kế hoạch và chỉ thị. Những người con yêu của Tổ Quốc VN với quân phục Hải quân VN biết ra đi khó trở về nhưng cười hiểm nguy, bất chấp nỗi gian nan ra đi quyết làm tròn nhiệm vụ với Tổ Quốc và Nhân dân VN.


Năm 2009, 35 năm sau, chính tờ báo Tuổi Trẻ của Đảng Nhà Nước CS Hà nội bây giờ cũng tỏ lòng ngưỡng phục. Với lời toà soạn giới thiệu loạt bài "Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau", tường thuật chi tiết về sự kiện 19 tháng 1 năm 1974 - thời điểm Hải quân Trung Quốc cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam tại biển Đông từ tay chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, báo Tuổi Trẻ viết: "(Tuổi Trẻ)- Hơn 35 năm trước, những người con đất Việt đã nhận lệnh vượt trùng dương ra quần đảo Hoàng Sa canh giữ biển trời Tổ quốc. Họ tự hào ra đi trong tâm thế của người Việt ra canh giữ đảo biển của người Việt! Bây giờ nhắc lại, mắt họ rưng rưng, tim họ nghẹn lại khi Hoàng Sa vẫn còn trong tay nước ngoài. Từ số báo này, Tuổi Trẻ đăng tải hồi ức của những người từng canh giữ biển trời Hoàng Sa 35 năm trước. Thời gian dài trôi qua, nhưng những gì tận mắt họ chứng kiến, những gì họ trực tiếp tham gia không thể phai mờ trong tâm trí."
Cách "viết lách" này bị bộ máy kiểm duyệt của CS Hà nội phát giác nên phần thứ 3 tiếp theo, Báo Tuổi Trẻ phải đột ngột ngưng và xin lỗi bạn đọc vì "lý do ngoài ý muốn". Theo đài Á Châu Tự do năm ngoái trên blog của nhà báo Bùi Thanh trong loạt bài "Hoàng Sa - tường trình 34 năm sau" gồm ba kỳ. Kỳ cuối mà tờ Tuổi Trẻ tạm ngưng, không giới thiệu đến độc giả của mình "vì lý do ngoài ý muốn", đề cập đến" trận tử chiến" giữa Hải quân Việt Nam Cộng Hòa với Hải quân Trung Quốc để giữ Hoàng Sa..
Trong kỳ cuối, ông Lữ Công Bảy, nhân chứng tham gia trận tử chiến để bảo vệ lãnh thổ này kể về khung cảnh trên Khu trục hạm Trần Khánh Dư sau trận tử chiến: Trên hành lang xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một sự kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng… mấy ngày liền không có thời gian thu dọn. Hơn 130 thủy thủ đoàn bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương thực khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn. Trong phòng y tế, các binh sĩ người nhái bị thương cũng nằm la liệt. Một binh sĩ bị đạn bắn thủng cằm từ trái qua phải, mặt sưng vù. Anh ngồi bất động, máu không còn chảy ra nữa, nhưng khóe miệng những vệt máu lẫn nước bọt vẫn rỉ ra. Hạ sĩ Danh nằm thoi thóp trên băng ca, ngực anh đầy bông băng nhuốm máu. Tôi rờ lên trán anh nóng hổi, hỏi anh có khỏe không? Anh mở mắt rồi gật đầu nhưng lịm dần rồi chết...
Khoảng 16 giờ 30 tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt, thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo: "Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo".
Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động, không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này.Thế rồi, giữa khoảnh khắc yên lặng kỳ lạ và căng thẳng đó, một câu nói được thốt ra, tôi còn nhớ mãi: "Dù sao đánh nhau với Trung Quốc nếu có chết cũng vinh quang hơn".
Đúng như niềm tin của những quân nhân VNCH nói trước giờ tử chiến. Đối với bất cứ một quốc gia dân tộc nào, chủ quyền quốc gia, bờ cõi đất nước, giang sơn gấm vóc của một quốc gia dân tộc là thiêng liêng. Lấy máu xương ra chiến đấu gìn giữ là một hy sinh cao cả nhứt, Tổ Quốc mãi mãi ghi ơn. Phản quốc là một đại trọng tội trời không dung đất không tha, dân phỉ nhổ. Nên việc CS Hà nội thần phục quân Tàu, nhượng đất, dâng biên, dân đảo cho CS Bắc Kinh đã làm cho Đảng Nhà Nước phân hoá. Tướng lãnh CS hưu và tại chức chống đối. Trí thức trẻ già chống đối. Trang web bauxite có hàng ngàn người có học tham gia. Báo Điện tử của Đảng Cộng Sản Việt Nam đăng bản dịch một bài báo của Trung Quốc nói về một cuộc tập trận của Trung Quốc vào tháng 8 tại khu vực Trường Sa và Hoàng Sa, bị dư luận phản ứng quyết liệt phải gở xuống. Trang web ''Hợp tác kinh tế thương mại Việt Trung'', http://www.vietnamchina.gov.vn, tức là trang web có tên miền Việt Nam, do Việt Nam quản lý, lại đăng ý kiến của phát ngôn viên Trung Quốc khẳng định Hoàng Sa và Trường Sa là của Bắc Kinh, bị chống đối nhà nước phải đóng cửa luôn. Không sử dụng được truyền thông chính thức của Đảng Nhà Nước CS, là " báo đài"ø, người Việt yêu nước dùng truyền thông dòng phụ như blog chánh trị để chống. Bắt người này, người kia đứng lên kế tục.

Rồi bài báo "Tảøn mạn với Đảo Xa" của Trung Bảo trên báo Du lịch, "Hoàng Sa - tường trình 35 năm sau" trên báo Tuổi Trẻ; báo Tuổi Trẻ và Thanh Niên, đồng loạt đăng bài ''Trung Quốc yêu sách 80% diện tích biển Đông : Không chấp nhận đường lưỡi bò'' của tác giả Quốc Pháp, là thí dụ điển hình. Thậm chí đến báo Công an nhân dân Online vào đầu tháng 8 cũng có một bài bình luận ở phụ trang An ninh thế giới, tựa đề ''Lại thêm một hành động không hữu hảo trên biển Đông' với kết luận những hành động của TQ gần đây nằm trong mưu đồ chính trị thâm hiểm, muốn biến Biển Đông thành ''ao nhà'' của TQ.
Với bộ máy kềm kẹp toàn diện và tinh vi của CS Hà nội, tự nhiên giỏi lách được qua ngỏ hẹp không bao lâu thì "ở trên" biết và ra lịnh phải gỡ xuống. Nhưng vẫn có người tìm cách lách nữa, lách hoài, lách mãi. Người dân Việt ở Bắc, ở Trung, ở Nam, ở hải ngoại, nhà báo yêu nước ở quốc nội và hải ngoại lách chừng nào Đảng cầm quyền mãi quốc cầu vinh rách nát, tan vỡ mới thôi. Để người Việt sang trang lịch sử mơí với một chánh quyền của dân, vì dân, do dân huy động được nội lực dân tộc tiếp nối con đường chống quân Tàu dài cả 1000 năm trong û 4000 năm lịch sử của quốc gia dân tộc Việt. Và nếu cần chống cả 1000 nữa cũng chống. Đời ta không thành, thì có con cháu ta, con cháu ta không thành thì có con cháu của con cháu ta. Đất nước còùn thì còn tất cả, đất nước mất thì mất tất cả. Có chết cũng phải chiến đấu để tìm sự sống trong cái chết.

VI ANH
_________________
KBC Hai Ngoai
Administrator



Wednesday, August 26, 2009

Dương Văn Minh

"Trăm năm bia đá thì mòn
Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ"

Hàng Tướng Dương Văn Minh
Lữ Giang

Trong các tướng lãnh tham gia chính trường tại miền Nam Việt Nam, có lẽ tướng có thân phận bi thảm nhất là Tướng Dương Văn Minh. Biết Dương Văn Minh không hiểu biết gì về chính và thủ đoạn chính trị, thường suy nghĩ và hành động theo cảm tính, lại mắc bệnh tham lam, nên Hoa Kỳ đã biến ông thành một một công cụ đầy oan nghiệt để thực hiện chính sách của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn rồi loại bỏ.

Có thể coi cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh như là một chương bi thảm trong lịch sử VNCH và cũng là một chương bi thảm trong tương quan giữa VNCH và Hoa Kỳ.
Người Việt ai cũng thuộc câu “Tri bỉ tri kỷ bách chiến bách thắng”, nhưng mặc đầu đã chiến đấu với Mỹ trong 20 năm và đã ở trên đất Mỹ 34 năm, đa số người Việt chống Cộng không biết Mỹ và địch đang làm gì, cứ suy nghĩ và hành động theo cảm tính, nên đấu tranh đã 34 năm mà vẫn chưa thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Vì thế, hôm nay nhân kỷ niệm ngày mất nước, chúng tôi xin trình bày tóm lược về một số bí ẩn và tai tiếng chung quanh cuộc đời và vai trò của Tướng Dương Văn Minh với ước mong mọi người có thể nhìn vào đó tìm ra bài học lịch sử khi tiếp tục đấu tranh.

VỤ BIỂN THỦ MỘT THÙNG PHUY VÀNG

Trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự”, Tướng Nguyễn Chánh Thi có kể lại:
Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng. Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình. Tướng Thi kể tiếp:
“Trong toán này có Thiếu Tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rễ của Bảy Viễn.
“Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn. Hắn ta nói:
“- Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó.
“Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư Lệnh của Đại Tá Dương Văn Minh và Trung Tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi.
“Trung Tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả!
“Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt!
“Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.” [1]
Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Công An Cảnh Sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây. Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là hai số tiền và vàng khác nhau? Chúng tôi tin rằng hai số tiền và vàng này chỉ là một, nhưng Tướng Thi chỉ được nghe nói hay nhìn thoáng qua nên không biết chính xác, còn Đại Tá Y là người đứng ra chỉ huy việc truy tìm số tài sản này nên câu chuyện được ông kể lại đầy đủ và chính xác hơn. Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại Tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.
Đại Tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia kiêm Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trưởng Trung Ương Tình Báo của VNCH đã tường thuật như sau:
Lúc đó ông là Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184. Vào khoảng tháng 5 năm 1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sát, ông đã thả các nhân viên Phòng 2 đi thăm dò ven rừng. Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn. Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy. Nhân viên Phòng 2 tiếp tục phỏng vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống. Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn. Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít.
Công cuộc kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng. Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm nước. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố. Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại Tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn. Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung Tá Chỉ Huy Phó của Đại Tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.
Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm Phán Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.
Ông Huỳnh Văn Lang, lúc đó là Bí Thư Liên Kỳ của Đảng Cần Lao và Tổng Giám Đốc Viện Hối Đoái, cho biết ông Lâm Lễ Trinh đã tiết lộ rằng khi được hỏi về số vàng này, Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ, nói rằng ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì.
Ông Lang cũng cho biết ông có được đọc bản báo cáo hai trang của Đại Tá Mai Hữu Xuân. Đại Tá Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu Khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại Tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau! [2]
Ông Cao Xuân Vỹ cho biết khi ông Nguyễn Ngọc Thơ đề nghị cho Tướng Dương Văn Minh chỉ huy Chiến Địch Đinh Tiên Hoàng để bắt Ba Cụt, ông Diệm đã nói với ông Nhu: “Thôi, cho nó số vàng đó đi cho yên!”

CHỨA CHẤP GIÁN ĐIỆP VIỆT CỘNG

Anh Nguyễn Tư Thái, tự là Thái Đen, Phụ Tá Trưởng Đoàn Công Tác Đặc Biệt, cho biết vào đầu năm 1960, nhân viên của Đoàn thấy một người thường lui tới nhà Dương Văn Minh, ở số 3 đường Trần Quý Cáp, Sài Gòn, nhưng mỗi lần đi ra, anh ta thường nhìn trước nhìn sau rất kỹ, thấy không có gì khả nghi mới bước ra. Những người bình thường không ai làm như vậy. Một hôm, đợi anh ta ra khỏi nhà Dương Văn Minh một khoảng xa, nhân viên tình báo liền bắt đẩy anh ta lên xe và đem về thẩm vấn. Lúc đầu anh ta nói anh ta chỉ là người đến dạy học cho các con của Tướng Minh. Tuy nhiên, sau nhiều cuộc thẩm vấn khéo léo, anh ta nhìn nhận anh ta là một ủy viên của Huyện Ủy Thủ Đức, được phái đến gặp Dương Văn Minh để lấy tin tức. Anh này đã bị giam giữ luôn, nhưng Dương Văn Minh không hay biết gì cả.
Sau vụ này, Đoàn Công Tác Đặc Biệt và Tổng Nha Cảnh Sát đã bố trí thường trực chung quanh nhà Dương Văn Minh, theo dõi từng bước đi của những người ra vào nhà ông, quay phim và chụp hình. Điện thoại của nhà ông cũng bị nghe lén.
Khoảng tháng 3 năm 1960, có một người có mặt mày và hình dáng rất gióng Dương Văn Minh, đã đến ở luôn trong nhà Dương Văn Minh và mỗi lần đi đâu thường được chính Dương Văn Minh chở đi. Sưu tra hồ sơ, nhân viên tình báo biết ngay đó là Dương Văn Nhựt, em của Dương Văn Minh, có bí danh là Mười Tỵ, hiện đang là Thiếu Tá trong bộ đội miền Bắc. Vợ của Dương Văn Nhựt hiện đang sống tại Sài Gòn. Theo dõi sát, nhân viên tình báo biết được Dương Văn Nhựt đang đi vận động Phật Giáo và sinh viên chống ông Diệm.
Trong cuộc phỏng vấn ngày 16.10.2004, Đại Tá Nguyễn Văn Y cho biết khi vợ Dương Văn Nhựt có bầu gần sinh, Dương Văn Nhựt đã đưa vợ tới ở nhà của Trung Tá Dương Văn Sơn, em của Dương Văn Minh. Lúc đó Dương Văn Sơn đang làm trưởng phòng truyền tin của Biệt Khu Thủ Đô. Tướng Minh thường đến nhà Dương Văn Sơn nói chuyện với Dương Văn Nhựt. Vì thế, nhà Dương Văn Sơn cũng bị theo dõi như nhà Dương Văn Minh.
Một hôm, Tổng Thống Diệm gọi ông và bảo đem tất cả hồ sơ vụ Dương Văn Minh vào gặp ông. Có lẽ trước đó Đoàn Công Tác Đặc Biệt đã trình nội vụ cho Tổng Thống biết rồi.
Khi ông đem hồ sơ vào, Tổng Thống Diệm hỏi: “Dương Văn Minh có theo Cộng Sản không?” Rồi ông nói tiếp: “Võ Nguyên Giáp nhiều công trạng như rứa mà nay Cộng Sản chỉ mới cho lên Trung Tướng. Dương Văn Minh công trạng có bao nhiêu đâu mà nay đã lên Trung Tướng rồi, còn muốn gì nữa?”
Đại Tá Y nói ông vốn là đàn em và là người quen biết với Tướng Minh nên chưa biết phải trả lời như thế nào. Tổng Thống liền đưa cho ông cái hộp quẹt và bảo đem tất cả hồ sơ ra đốt đi. Tổng Thống nói: “Mỹ mà nó biết được Trung Tướng của mình theo Việt Cộng thì xầu hổ lắm. Đốt hết đi! Từ rày tôi không muốn nhắc tới cái vụ này nữa.”
Nhưng đốt hồ sơ rồi cũng chưa xong, nhân viên tình báo còn phải bắt Dương Văn Nhựt và dẫn ông ta ra chiến khu để ông ta đi qua Cambodia và trở về lại miền Bắc, với lời cảnh cáo: “Nếu trở lại sẽ bị thanh toán”. Câu chuyện này có lẽ Tổng Cục Phản Gián của Hà Nội không hề hay biết.
Sau đó, ông Diệm đã bảo Đại Tướng Lê Văn Tÿ, Tổng Tham Mưu Trưởng, thông báo cho Tướng Minh biết từ nay ông ta chỉ có thể xử dụng các đơn vị cấp đại đội trở xuống mà thôi. Tướng Minh biết lý do tại sao, nhưng các cố vấn Mỹ không biết chuyện gì đã xẩy ra, nên rất thắc mắc. Họ nghĩ rằng ông Diệm sợ Tướng Minh làm đảo chánh nên mới hạn chế như vậy. Ngày 18.7.1962, ông Diệm thông báo cho Tướng Harkins biết ông quyết định hủy bỏ chức Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân của Tướng Minh vì ông ta “thiếu khả năng.” Ngày 8.12.1962 Trung Tướng Dương Văn Minh được cử làm Cố Vấn Quân Sự Phủ Tổng Thống, một chức vụ được coi như “ngồi chơi xơi nước”.
Sau này, báo Tuổi Trẻ Chúa Nhật của Việt Cộng trong số ra ngày 1.9.1996, dưới đầu đề “Tướng Dương Văn Minh dưới mắt các nhà binh địch vận”, đã tường thuật lại mối quan hệ giữa Tướng Dương Văn Minh và người em là Dương Văn Nhựt như sau:
“Năm 1960, Mười Tỵ, thiếu tá thuộc Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Nhân Dân Việt Nam - được lệnh về Nam nhận công tác đặc biệt. Nhiệm vụ của ông là quan hệ, tranh thủ người anh ở bên kia chiến tuyến, đại Tướng Dương Văn Minh. Sau khi vượt Trường Sơn vào Nam, Thiếu Tá Dương Văn Nhựt, tức Mười Tỵ, đã được Ban Binh Vận Trung Ương Cục tìm mọi cách đưa vào Sài Gòn. Thông qua một người em gái, ông Mười Tỵ đã đến được và ở lại nhà của Dương Văn Minh suốt một tuần lễ. Hai anh em ở hai phía chiến trận gặp gỡ hàn huyên. Bằng tình cảm gia đình, ông Mười Tỵ thuyết phục Tướng Minh. Từ đó, ông Mười Tỵ cứ phải đi về trong “vùng địch” hoặc ra nước ngoài để tiếp xúc và gặp gỡ anh mình. Khi Dương Văn Minh lưu vong ở Thái Lan, ông Mười Tỵ cũng được bố trí sang Thái Lan qua ngã Campuchia. Ông đến Nam Vang, sống trong nhà một Hoa kiều. Tại đó, trong vòng một tháng, ông vừa học bằng sách vở, vừa thực tập giao tiếp để nói tiếng Hoa hồng để nhập vai người đi buôn. Có khi từ Nam Vang ông phải bay lòng vòng sang Ý, rồi từ Ý được cơ sở Việt kiều đón về Pháp để móc nối chị dâu (vợ của Tướng Minh) từ Thái Lan qua liên lạc”.
Bài báo viết thêm:
“Kể từ 1972, bộ đội bắt đầu mở nhiều trận đánh lớn, nên Mười Tỵ được lệnh không ra vùng địch và ra nước ngoài nữa vì “sợ rủi ro làm hỏng ý đồ chiến lược”, nên việc móc nối với Dương Văn Minh được giao cho Nguyễn Hữu Hạnh.”

BỊ BIẾN THÀNH TÊN ĐAO PHỦ CỦA MỸ

Vì không hiểu gì về thủ đoạn chính trị, Dương Văn Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành tên đao phủ thanh toán Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn rồi sau đó loại bỏ.
1.- Giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu
Biết Tướng Dương Văn Minh đang bất mãn với ông Diệm nên CIA thuyết phục ông ta làm đảo chánh lật đổ ông Diệm. Dương Văn Minh đồng ý ngay. Trên danh nghĩa, ông ta là người chỉ huy cuộc đảo chánh, nhưng bên trong CIA chỉ giao cho ông ta một nhiệm vụ duy nhất là thanh toán nhà Ngô. Còn việc lập kế hoạch và chỉ huy cuộc đảo chánh được trao cho Tướng Trần Thiện Khiêm.
Khi tiến hành cuộc đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh hạ sát Đại Tá Hồ Tấn Quyền, Tư Lệnh Hải Quân; Đại Tá Lê Quang Tung, Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt, và Thiếu Tá Lê Quang Triệu, Tham Mưu Trưởng Lực Lượng Đặc Biệt.
Khi được ông Diệm báo tin đang ở nhà thờ cha Tam, Dương Văn Minh đã cho lập “toán hành quyết” đi đón và giết ông Diệm và ông Nhu. Toán này do Đại Tá Mai Hữu Xuân cầm đầu. Tướng Minh cho Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, cận vệ của mình, đi theo làm sát thủ.
Khi xác ông Diệm đưa về Tổng Tham Mưu, một quân cảnh cho biết chính mắt ông ta thấy Tướng Dương Văn Minh đã xuống lột quần ông Diệm ra xem có “chim” hay không.
Tướng Trần Văn Đôn cho biết khi hay tin hai ông đã chết, ông rất xúc động và đến hỏi Dương Văn Minh:
- Tại sao hai ông ấy chết?
Ông Minh có vẽ khó chịu, trả lời bằng tiếng Pháp: Ils sont morts! Ils sont morts! (Mấy ông ấy chết rồi, thì chết rồi) [3]
2.- Giết ông Ngô Đình Cẩn
Chính Tướng Nguyễn Khánh đã cho soạn thảo và ban hành Sắc Luật số 4/64 ngày 28.2.1964 thiết lập Toà Án Quân Sự đưa ra những quy định trái với nguyên tắc bất hồi tố của hình luật, và cử nhóm tay chân bộ hạ vào làm “phán quan” để tuyên án tử hình ông Cẩn. Sắc Luật lại quy định rằng các bị cáo không có quyền kháng cáo hay thượng tố. Bị cáo bị án tử hình có thể đệ đơn xin ân xá lên Quốc Trưởng trong thời hạn 24 tiếng đồng hồ. Trong trường hợp phạm nhân bị xử tử hình đã đệ đơn ân xá, án tử hình sẽ thi hành trong hạn 5 ngày kể từ khi tuyên án, nếu trong hạn đó, đơn xin ân xá không được chấp thuận. Những sự quy định này nhắm gài Tướng Dương Văn Minh, lúc đó đang là Quốc Trưởng bù nhìn, vào cái thế phải chịu trách nhiệm giết ông Cẩn.
Mặc dầu đứng đàng sau Tướng Khánh trong vụ làm luật giết ông Cẩn và biết chắc ông Cẩn phải bị giết, Đại Sứ Cabot Lodge giả vờ đứng ra làm con thoi, đề nghị Tướng Minh ân xá cho ông Cẩn. Tướng Minh biết mình bị gài nên nói với Đại Sứ Lodge: “Khánh luôn luôm tìm cách đặt tôi vào tình trạng khó khăn (He always tries to put me in the difficult position). Tôi sẽ bị cả nước thù ghét và tố cáo nếu tôi ân xá Cẩn.” Đại Sứ Lodge nhận xét: “Rõ ràng là Khánh đang sắp xếp các sự việc để cho Minh gánh lấy tất cả trách nhiệm nếu không hành quyết Cẩn.”
Hôm 5.5.1964 Tướng Dương Văn Minh đã ký quyết định bác đơn xin ân xá của ông Cẩn và trở thành tên sát thủ ông Cẩn!

BỊ ĐƯA RA LÀM HÀNG TƯỚNG

Vào tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ thấy tình hình miền Nam Việt Nam không còn cứu vãn được, nên đã sắp xếp cho miền Nam đầu hàng Bắc Việt để tránh sự đổ máu quá nhiều. Biết Tướng Dương Văn Minh có liên lạc với Việt Cộng, Đại Sứ Martin của Mỹ đã phối hợp với Đại Sứ Merillon của Pháp thuyết phục Tướng Thiệu từ chức và lừa Tướng Dương Văn Minh ra làm hàng tướng bằng cách tạo cho ông một ảo vọng rằng chỉ có ông mới có thể nói chuyện với “phía bên kia” để hình thành một “chính phủ liên hiệp Quốc – Cộng!”
Trong cuốn Decent Interval, Frank Snepp, một phân tích viên của CIA ở Saigon lúc đó, nói rằng tại miền Nam lúc đó, không ai tin Hà Nội có thể chấp nhận một giải pháp khi họ đang trên đà chiến thắng. Ông Vũ Văn Mẫu cũng đã nhận ra được điều đó nên khi gặp Đại Sứ Merillon, ông đã nói với ông Đại Sứ bằng tiếng Latin rằng nếu giải pháp một chính phủ liên hiệp không thành thì xin giúp ông được ra đi.

Frank Snepp cho biết thêm:
“Khi tôi đang bận đánh máy bản báo cáo thì Polgar ở trong phòng riêng với các viên chức khác của Trạm Tình Báo (Toà Đại Sứ) thảo luận về việc chuyển giao nhanh quyền hành. Một khi Thiệu từ chức, Phó Tổng Thống Trần Văn Hương phải trao quyền hành ngay lập tức cho Minh “Lớn”, và Quốc Hội phải sẵn sàng chấp thuận sự chuyển giao, để sự chuyển giao đó có thể được thực hiện “một cách hợp hiến” (nhấn mạnh của Đại Sứ Martin) và “nhanh chóng”. [4]
Sau khi ép buộc Tướng Nguyễn Văn Thiệu từ chức Tổng Thống, Mỹ thúc đẩy Phó Tổng Thống Trần Văn Hương trao quyền lại cho Tướng Dương Văn Minh để đầu hàng Việt Cộng, nhưng ông Trần Văn Hương không hiểu gì về tình hình lúc đó nên tìm cách cù cưa. Ông bí mật đến gặp Tướng Minh và yêu cầu Tướng Minh làm Thủ Tướng, nhưng Tướng Minh từ chối. Tuy nhiên, do sự thúc đẩy của CIA và một số nhân vật chính trị, cuối cùng ông cũng đồng ý trao quyền cho Tướng Minh với điều kiện phải có sự quyết định của Quốc Hội.

Ngày 26.4.1975 lưỡng viện Quốc Hội đã họp tại Thượng Viện dưới quyền chủ toạ của ông Trần Văn Lắm, Chủ Tịch Thượng Viện, để đưa Tướng Dương Văn Minh lên làm Tổng Thống. Có 136 trong số 219 nghị sĩ và dân biểu đến họp. Sau khi Đại Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, và Tướng Nguyễn Khắc Bình, Tổng Giám Đốc CSQG trình bày về tình hình, Quốc Hội bắt đầu thảo luận về việc trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh. Có rất nhiều sự bất đồng về việc trao quyền, nhiều người cho rằng sự trao quyền này là bất hợp hiến. Nhưng các nhóm vận động hậu trường đã hoạt động rất ráo riết nên cuối cùng, lúc 20 giờ 54 phút, Quốc Hội đã biểu quyết chấp thuận trao quyền cho Tướng Dương Văn Minh với số phiếu 147/151.
Chiều 28.4.1975, Tướng Dương Văn Minh đã nhận chức Tổng Thống. Lễ bàn giao được diễn ra tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập.
Cũng trong chiều 28.4.1975, Đô Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân, vào Dinh Hoa Lan gặp Tướng Minh cho biết tình hình và hỏi Tướng Minh có định ra đi không. Tướng Minh cho con gái là Dương Mai, con rễ là Đại Tá Nguyễn Hồng Đài và hai cháu ngoại lên tàu di tản với Đô Đốc Cang, còn ông và bà Minh ở lại.
Đêm 29.4.1975, Tướng Minh vào ngũ trong Dinh Độc Lập để tránh pháo kích. Lúc đó, ông chỉ còn hy vọng Thượng Tọa Thích Trí Quang, người hứa sẽ đưa người “phía bên kia” đến thương lượng để thành lập chính phủ liên hiệp. Tướng Nguyễn Hữu Có kể lại lúc 4 giờ 35 sáng ngày 30.4.1975, Thích Trí Quang đã nói với Dương Văn Minh qua điện thoại:
“Thưa Tổng Thống, cũng như Tổng Thống là tôi vẫn chờ đến giờ nầy và theo tôi nghĩ có lẽ với tình thề hiện tại, trong sứ mạng của tôi, người đứng trung gian bắc nhịp cầu của thế cờ chính trị, có thể nói là chấm dứt. Với trọng trách là Tổng Thống, hơn nữa là một Đại Tướng, tôi nghĩ công việc phải nhờ vào tài quân sự của Đại Tướng, chứ giải pháp chính trị của tôi coi như chấm dứt, và từ giờ phút này nếu có chuyện gì xẩy đến thì mọi trách nhiệm đều do Tổng Thống, à quên Đại Tướng quyết định với giải pháp quân sự, mà trong lãnh vực này Đại Tướng rất rành và giỏi hơn tôi. Xin chào Tổng Thống...”
Dương Văn Minh chỉ trả lời gọn một câu: “Thầy giết tôi rồi!” và cúp máy điện thoại.
Lúc đó là 4 giờ 45 phút sáng.
Frank Snepp kể lại, sau đó Tướng Minh đi đi lại lại một cách bực dọc (nervously) trong dinh Độc Lập trống vắng. Đoàn sứ giả đi thương lượng ở Tân Sơn Nhứt không thấy về. Có người khuyên ông nên tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, nhưng ông không đồng ý. Ông nói rất nhiều đồng bào của ông sẽ khinh ông. (Too many of his countrymen would think ill of him). Ông muốn hoản lại chuyện này cho đến khi nội các được thành lập. Khi đó ít ra những người khác phải chia xẻ sự sỉ nhục.[5]
Lúc 8 giờ 30, ông đến Phủ Thủ Tướng thảo luận lại thành phần chính phủ của Vũ Văn Mẫu rồi quay về dinh Độc Lập làm lễ ra mắt.
Lúc 10 giờ 15 sáng ngày 30.4.1975, khi thấy không còn gì để hy vọng nữa, Dương Văn Minh lên tiếng trên đài phát thanh Sài Gòn kêu gọi quân nhân, cảnh sát và các lực lượng bán quân sự “giữ vị trí, buông súng để bàn giao chính quyền trong vòng trật tự”. Lúc 11 giờ 30, chiếc xe tăng Cộng Sản đầu tiên loại T-54 tiến trên đại lộ Thống Nhứt về phía Dinh Độc Lập, ủi sập cổng, sau khi bắn hai phát đại bác long trời lở đất. Tiếng chân chạy ồn ào trong đại sảnh, có tiếng đạn lên nòng, một khẩu lệnh vang lên: “Mọi người đi ra khỏi phòng ngay!” Dương Văn Minh là người bước ra đầu tiên, Thiếu Tá tùy viên Hoa Hải Đường đi bên cạnh, phía sau là Vũ Văn Mẫu, Nguyễn Văn Huyền... Nhiều bộ đội ở đầu kia đại sảnh hét to: “Mọi người giơ hai tay lên!”. Dương Văn Minh, Vũ Văn Mẫu và đoàn tùy tùng nhất loạt tuân lệnh.
Hai ông Minh và ông Mẫu được đưa đến đài phát thanh Sài Gòn để đọc lời đầu hàng. Nhưng khi hai ông vào bên trong đài phát thanh thì không còn nhân viên kỹ thuật nào ở đó để làm công việc thu băng. Sinh viên Nguyễn Hữu Thái phải mất hai tiếng mới tìm ra nhân viên kỹ thuật. Bản tuyên bố đầu hàng do chính trị viên Bùi Văn Tùng thảo, ông Minh đọc và đài phát thanh phát đi vào lúc 13 giờ 30.
Tính lại, Dương Văn Minh đã làm Tổng Thống không tới 40 tiếng đồng hồ: Nhận chức vào chiều 28 tại Dinh Độc Lập đến trưa 30.4.1975 đã tuyên bố đầu hàng!

NHÌN LẠI CON NGƯỜI CỦA DƯƠNG VĂN MINH

Tướng Nguyễn Chánh Thi tiết lộ rằng khi còn ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh có gởi cho ông một lá thư đề ngày 15.4.1987, trong đó có đoạn như sau:
"Thi,
“Được tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
“Từ khi tôi đến nước Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn tay không - Pháp chẳng giúp đỡ gì - mình sống ẩn thân trong một đô thị thật nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
“Nghe Thi kể chuyện các anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều việc tôi không được rõ hết.
“Anh em có đọc sách của anh Đỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Đỗ Mậu kể chuyện như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài ra, anh Đỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
“Theo tôi, tự tử không phải lúc nào cũng là đúng. Đôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu quả cho sự quyết định của mình gây ra...”
Thân phận của Tướng Minh đã bị Hoa Kỳ biến thành một cái mền rách, nhưng vì quá yếu kém về chính trị, nên cho đến khi gần tới giờ về cỏi âm, ông vẫn chưa nhận ra được! Lãnh đạo mà như thế, mất miền Nam là chuyện không có gì đáng ngạc nhiên.
Nhìn lại con người của Dương Văn Minh, chúng ta thấy có 3 đặc điểm sau đây:

Thứ nhất là tham nhũng và thiếu trách nhiệm:
(1) Biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bình Xuyên và một số tiền bạc thu được sau cuộc đảo chánh 1.11.1963. Cho một tay chân bộ hạ nổi tiếng tham những là Tướng Mai Hữu Xuân kiêm ba chức quan trọng cùng một lúc để truy lùng tài sản và khảo của các viên chức chế độ cũ, đó là Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, Đặc Ủy Trưởng Phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo và Đô Trưởng Sài Gòn. Tướng Xuân đã nhận cả tiền của Việt Cộng để thả các cán bộ cao cấp của Việt Cộng ra.
(2) Không quan tâm đến tình hình miền Nam sau cuộc đảo chánh và có quyết định sai lầm: Ra lệnh phá hủy các ấp chiến lược đã được thiết lập để đối phó với Cộng Sản, đưa miền Nam tới bờ vực thẳm khiến Hoa Kỳ phải thực hiện “Pentagon’s coup” để lật đổ và đưa quân vào miền Nam cứu vãn tình thế.
Thứ hai là ngố:
Mặc dầu làm việc với Hoa Kỳ và hành động theo sự xúi biểu của Hoa Kỳ, ông không hiểu gì về chính sách và thủ đoạn của Hoa Kỳ trong từng giai đoạn, nên đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ:
(1) Ông bị biến thành một tên sát thủ giết Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu và ông Ngô Đình Cẩn thay cho người Mỹ khi Hoa Kỳ muốn thay đổi chính sách. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó ông bị Hoa Kỳ loại và đưa những tay chân bộ hạ của CIA lên cầm quyền.
(2) Khi Miền Nam sắp sụp đổ, ông bị Hoa Kỳ lường gạt bằng chiêu bài “hoà giải hoà hợp” để đưa ông ra làm Hàng Tướng!
Thứ ba là hèn:
(1) Thiếu Tá Nguyễn Văn Nhung, cận vệ thân tín của ông, được ông phái đi giết Đại Tá Lê Văn Tung và Thiếu Tá Lê Văn Triệu, sau đó hạ sát ông Diệm và ông Nhu. Ấy thế mà sáng 30.1.1964, khi linh Nhảy Dù bắt Thiếu Tá Nhung trước mặt ông và dẫn đi, rồi tối hôm đó hạ sát, ông chẳng có một lời nào!
(2) Sáng ngày 30.4.1975, bộ chỉ huy 3 chiến thuật của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang quần thảo với Việt Cộng trước cổng Bộ Tổng Tham Mưu ở Lăng Cha Cả thì Tổng Thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng. Thiếu Tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng bộ chỉ huy 3 chiến thuật, đã nói chuyện với Tổng Thống Dương Văn Minh qua điện thoại:
- Tôi là chỉ huy trưởng cánh quân đang tử chiến với Việt Cộng ở Bộ Tổng Tham Mưu, tôi đang cố liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu thì lệnh ngưng chiến đã ban ra và quân của Việt Cộng vẫn còn đang tiến về thủ đô. Tôi vào trong Bộ Tổng Tham Mưu thì không còn một tướng lãnh nào ở đây, họ đã bỏ chạy hết, do đó tôi muốn nói chuyện với Tổng Thống để xin quyết định.
Tổng Thống Minh trả lời:
- Các em chuẩn bị bàn giao đi.
Thiếu Tá Tài hỏi lại:
- Có phải là đầu hàng không?
Tổng Thống Minh trả lời:
- Đúng vậy, ngay bây giờ xe tăng của Việt Cộng đang tiến vào Dinh Độc Lập.
Thiếu Tá Tài nói:
- Nếu xe tăng của Việt Cộng tiến về Dinh Độc Lập thì chúng tôi sẽ đến cứu Tổng Thống. Nếu Tổng Thống ra lệnh đầu hàng thì Tổng Thống có chịu trách nhiệm với hơn 1000 quân đang tử chiến ở Bộ Tổng Tham Mưu hay không?"
Tổng Thống Minh trả lời:
- Tùy ý các anh em.
Nói xong cúp máy!
(3) Ký giả Borries Gallasch, phóng viên tờ Der Spiegel của Đức, người ký giả ngoại quốc duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào sáng 30.4.1975, đã kể lại thái độ của Tướng Dương Văn Minh khi đối diện với các bộ đội cộng sản đến bắt ông đầu hàng như sau: Đại Tướng Dương Văn Minh im lặng. Dưới chiếc mũ cối, những người lính bộ đội nhìn ông Minh với vẻ tò mò... Cuối cùng ông Minh đã lên tiếng, hỏi một người lính: “Em trai của tôi hiện nay ra sao? Khi nào tôi có thể gặp chú ấy?”.
Làm tướng mà phải đầu hàng là nhục rồi, nhưng lại còn hèn hơn nữa khi nói mé cho những tên bộ đội nhỏ bé của Cộng quân biết rằng ông có người em theo Việt Cộng là Dương Văn Nhựt để chứng tỏ ta đây cũng thuộc “gia đình Cách Mạng”!

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG
Ngày 8.8.1983, Dương Văn Minh, được chính quyền Hà Nội cho phép di cư sang Pháp và sống với hai người con trai là Dương Minh Đức và Dương Minh Tâm. Khoảng năm 1988, ông âm thầm qua Pasadena, Nam California, Hoa Kỳ, và sống với con gái là Dương Mai đang định cư ở đó. Trong những những ngày còn lại của cuộc đời, Tướng Dương Văn Minh phải sống trong bóng tối, không dám gặp cộng đồng người Việt tại đây.
Ngày 5.8.2001, ông bị té từ xe lăn, được đưa vào bệnh viện Huntington Memorial Hospital và qua đời ngày hôm sau, hưởng thọ 86 tuổi. Linh cữu ông cũng được phủ cờ vàng ba sọc đỏ, được di chuyển lên xe bởi 6 người thân gồm các ông Hoa Hải Đường, Nguyễn Hồng Đài, Trịnh Bá Lộc, Hoa Hải Thọ, Ngô Long và Nguyễn Trí Dũng. Sau đó, linh cửu ông đã được hoả thiêu trưa thứ bảy 18.8.2001 vào lúc 12 giờ tại vãng sanh đường Skyrose thuộc nghĩa trang Rose Hill, Nam California.

Lữ Giang
26.4.2009

Ghi chú:
[1] Nguyễn Chánh Thi, Việt Nam: Một trời tâm sự, Xuân Thu, Hoa Kỳ 1987, tr. 27 và 28.
[2] Huỳnh Văn Lang, Nhân chứng một chế độ, Tập II, California, Hoa Kỳ, tr. 66 – 70.
[3] Trần Văn Đôn, Việt Nam nhân chứng, Xuân Thu, California, Hoa Kỳ 1989, tr. 231.
[4] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 382 – 383.
[5] Frank Snepp, Decent Intreval, Random House, New York, 1977, tr. 540.

Tuesday, August 25, 2009

Nén Hương Cho Những Biệt Kích Không Có Ngày Về



Bài viết dưới đây của Ông Lâm Lễ Trinh thâu thập những dữ kiện của những tài liệu có cái nhìn không thiện cảm và xu hướng một chiều của một vài cá nhân Mỹ như tài liệu của ông Sedwich Tourison chỉ có khuynh hướng để hoàn tất vụ kiện chính phủ hoa kỳ về Biệt Kích Sở Bắc . Cũng như các tác phẩm "The Secret War Against Hanoi của Richard H. Schultz Jr đã được Cộng Sản Việt Nam phiên dịch tài liệu để tuyên truyền trên báo chí và website.

Thời Ðệ nhị Thế chiến. Vài trò của OSS.OSS.

Office of Strategic Services, tiền thân của CIA, được thành lập bởi quyết định ngày 13.6.1942 của Tổng thống Franklin Roosevelt. Bộ Tham mưu Liên quân không mấy hưởng ứng mặc dù nắm quyền kiểm soát cơ quan. William Donovan là Giám đốc đầu tiên. OSS có trách vụ thực hiện các công tác bán quân sự mật như tình báo , chiến tranh tâm lý , hổ trợ các phong trào chống đối địa phương, tổ chức và huấn luyện quân du kích tại những xứ Âu châu và Á châu bị Ðức Quốc Xã và Nhựt chiếm đóng. Hồ Chí Minh bắt liên lạc được với nhóm OSS ở Côn Minh và kết thân với Thiếu tá Archemides L.A. Patti mà nhiệm vụ chính là cứu các tù binh của phe Ðồng minh. Patti chuyển cho TT Truman một bức thơ của Hồ (không được trả lời), giúp Hồ thảo bản Tuyên ngôn Ðộc lập, cung cấp võ khí và giúp huấn luyện một số cán bộ Việt Minh. Hồ cũng tiếp xúc với Trung tá OSS Peter Dewey và tướng Không quân Claire Chennault, người sáng lập toán Cọp Bay, Flying Tigers.. Từ OSS xuất thân những chuyên gia tình báo gạo cội HK như Edward Lansdale, William Colby, John K. Singlaub, Lou Conein...


CIA thay thế OSS, hoạt động tại Việt Nam (1954- 1960)

Khi Thế chiến chấm dứt, Harry Truman giải tán OSS. Luật An ninh Qu6c gia năm 1947 thành lập cơ quan CIA, Central Intelligence Agency. Hai quyết định số NSC 4 và 4A của Tổng thống giao cho CIA điều hành nhiều vấn đề thuộc an ninh quốc ngoại.

Thập niên 40 và 50 là thời kỳ "vàng son" của CIA. Ðúng vậy, ở Phi Luật tân, Ðại tá Lansdale thành công giúp Ramon Magsaysay dẹp quân phiến lọan Huks và đắc cử Tổng thống năm 1953. Tại Iran và Guatemala, CIA giựt giây cuộc lật đổ hai nhà độc tài Mohammed Mossadegh (1953) và Jacobo Guzman (1954). Tuy nhiên CIA thất bại âm mưu gây rối ở Estonia, Latvia, Lithuania, Ba Lan, Ukraine và Albania thuộc khối Xô Viết.

Các công tác chống Bắc Việt bắt đầu năm 1954, sau ngày Hiệp định Genève chia đôi tạm thời VN tại vĩ tuyến 17 để chuẩn bị bầu cử tự do năm 1956. HK cũng như Miền Nam không ký vào văn kiện. Dân hai miền Nam-Bắc có 300 ngày để định cư. Lansdale (được TT Eisenhower phái qua VN hoạt động sau ngày Ðiện Biên Phủ thất thủ 7.5.1954) thừa cơ hội cho đổ bộ ở ven biển Bắc Việt vài nhóm biệt kích qua những cuộc hành quân bí mật marops, maritime operations. Hồ Chí Minh ra lệnh cho 10.000 cán bộ ở lại Miền Nam và bũa rộng tại đây một mạng lưới gián điệp.

Năm 1956, CIA giúp tổ chức Nhóm Quan sát bán quân sự đầu tiên, the First Observation Group nằm ngoài hệ thống chỉ huy của Quân đội VNCH và do TT Diệm điều động,. Nhóm này công tác bên kia vĩ tuyến 17 để lấy tin và phá huỷ hệ thống liên lạc của địch. Năm 1958, có một thỏa ước Diệm-CIA để đưa biệt kích độät nhập Bắc Việt. Ngày 28.1.1961, trả lời câu hỏi của TT Kennedy, Giám đốc CIA Allan Dulles cho biết kết quả dưới mức mong đợi. Theo phân tích gia Herbert Weisshart, trong khối CS - nếu sánh với Nga sô, Trung quốc, Ðông Ðức và Bắc Hàn. được CIA mệnh danh quốc gia "phản gián/ vô thừa nhận, counterintelligence states, denied states" - thì Bắc Việt là nơi khó thực hiện nhất tâm lý chiến và công tác bí mật. Tình trạng này có nhiều lý do: Tại BV không thể lập khu kháng chiến maquis, kiểu Pháp thời chiến, do bên ngoài tiếp tế vì dân chúng bị nhồi sọ và hàng ngủ hoá triệt để. Mặt khác, bộ máy công an CS kềm kẹp sít sao thành thị, thôn quê đến hải phận; biên giới bị khoá chặt và không có sự giao thương, trao đổi tin tức, du lịch giữa hai miền Nam-Bắc. Bởi thế, CIA dồn 90% nổ lực vào Miền Nam. Ðã có một lúc Lansdale đề nghị tổ chức tại Bắc Việt một phong trào kháng chiến chống cộng để tạo rối loạn như ở Hung Gia Lợi năm 1956. Bộ Ngoại giao và CIA bác ý kiến này, cho là quá bạo, có thể gây đụng độ với Nga, Tàu và khai mào thế chiến.


Tổng thống Kennedy khởi đầu chiến tranh bất quy ước (1961)


Trong phiên họp 28.1.1961 tại Hội đồng An ninh Quốc gia, J.F Kennedy – vưà đắc cử Tổng thống - tuyên bố ông muốn những cuộc hành quân biệt kích được tổ chức bên trong Bắc Việt., mở màn một giai đọạn "đấu tranh khó hôn chiến tranh (quy ước) trên nhiều phương diện...", bởi thế "...cần nghiên cứu những gì Mao Trạch Ðông và Che Guevara đã viết về chiến tranh du kích." Ngày 27..4.1961, tai Hội đồng, tướng Edward G. Lansdale, bạn thân của TT Ngô Ðình Diệm, thuyết trình rằng Việt cộng đang thành công gia tăng khủng bố và du kích tại Miền Nam VN với chủ đích lật đổ chế độ hiện lung lay. Theo lời kể lại của Richard Helms – sau này trở thành Giám đốc CIA – Bộ trưởng Tư pháp Robert Kennedy, Bộ trưởng Quốc phòng McNamara, hai anh em Bundy, Walt Rostow và tướøng Maxwell Taylor ủng hộ hăng hái ý kiến của Tổng thống nhưng không có kinh nghiệm nhiều về vấn đề.

TT Kennedy chỉ định một ban nghiên cứu do Roswell Gilpatric,Thứ trưởng Quốc phòng, chủ tọa và gồm có Lansdale, Rostow,Alexis Johnson và Desmond Fitzgerald, để thảo một "Chương trình Hành động cho VN, Program of Action for Vietnam". Phúc trình, nạp đầu tháng 5.1961, cho biết lối 58% lãnh thổ Miền Nam bị CS kềm toả. Phúc trình đề nghị chấn chỉnh gấp hệ thống an ninh và phát triển trong xứ, kèm theo một kế hoạch xâm nhập bí mật Miền Bắc. Ngày 11.5.1961, TT Kennedy chấp nhận và nóí rỏ trong quyết định hành pháp NSAM 52 "Mục tiêu của HK là .ngăn CS thôn tính Miền Nam; dựng tại đây một xã hội dân chủ vững vàng bằng cách áp dụng cấp bách một loạt biện pháp mật về mặt quân sự, chính trị, kinh tế và tâm lý

"Cuộc chiến bất quy ước chống Bắc Việt trải qua hai giai đọan từ Kennedy cho đến Nixon.


A –Giai đọan 1961 -1962:

Luật sư William Colby, tốt nghiệp Princeton, nói rành tiếng Pháp, là trưởng đoàn CIA tại Saigon từ 1959. Ông chủ trương "gia tăng sự bất ổn tại Bắc Việt để lập thăng bằng với tình trạng thiếu an ninh mà cộng sản tạo ở Miền Nam." Gilbert Layton điều khiển ngành đặc công. Vì phương tiện giới hạn cho nên CIA chỉ đưa được trên vĩ tuyến 17, bằng đường bộ, đường biển và thảy dù, lối 30 biệt kích tổ chức thành toán (teams), mổi toán 6 người, và một số gián điệp viên hoạt động đơn độc (singletons). Lực lượng đặc công gồm đa số người Bắc di cư vào Nam sau Hiệp định Genève 1954. Thoạt tiên, họ có trách vụ " tổ chức trên đất địch một căn cứ du kích" nhưng về sau, vào đầu năm 1962, vì vấp phải khó khăn thực tế, Colby phải đổi hướng công tác của họ thành tình báo, phá hoại, chiến tranh tâm lý và rải truyền đơn "Gươm Thiêng Ái Quốc". Dù đổi nhứ thế, kế hoạch vẫn thất bại nặng , theo phúc trình của Ủy ban 303, The 303 Committee, được Toà Bạch ốc đặt ra để trắc lượng chiến dịch: Gần tất cả các biệt kích vượt tuyến bị CS bắt giử, tra tấn, thủ tiêu hay buộc cọng tác với chúng. Ủy ban điều tra nêu ra nhiều lý do thất bại: Hoa kỳ giao phó cho Chính quyền Saigon tuyển mộ trực tiếp các biệt kích nên không kiểm soát được về vấn đề nội gián. Một khi lọt vào Bắc Việt họ không liên lạc dược với nhau và bị dân địa phương nhận diện mau chóng; CS gài tình báo vào phiá đối phương. Phương cách thả dù các đặc công mà không chuẩn bị cho họ một cứ điểm đổ bộ an toàn để họat động trong lòng địch – The Blind Drop concept – tỏ ra tai hại. Theo lời kể lại của cựu Thiếu tá biệt kích Trần Khắc Kính, hiện ngụ tại Californie, đêm 2.6.1961, Trung tá không quân Nguyễn Cao kỳ lái chiếc máy bay C47 bay ra Bắc Thái thả dù toán Castor.

Tai hại nhất là Averell Harriman, "thầy dùi" của TT Kennedy, vận động để ba phe Lào (Quốc gia-Cộng sản -Pathet) , Nga sô và Bắc Việt chấp nhận trung lập hoá xứ Lào tại Hội nghị Genève. Theo Harriman, giải pháp trung lập hoá ít nguy hiểm hơn chọc tức Bắc kinh bằng cách tấn công trực tiếp Bắc Việt. Sau ngày ký Hiệp ước 6.7.1962, Mỹ rút hết quân. Hànội rút tượng trưng ...40 cán bộ (!)ä và gài lại 10.000 du kích ở Thượng Lào. Dùng Lào làm bàn đạp, CSVN gấp mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh (khai thông từ thập niên 50) để ào ạt xua quân vào Nam dưới mũi của Ủy ban Kiểm soát Quốc tế. Chỉ trong tháng 6.1962 mà thôi, Hànội đưa được 1.500 lính chính qui qua ngã Lào và Miên. Thế quân sự nghiêng hẳn có lợi về phiá Bắc Việt.

B – Sau 1962: Ngũ Giác Ðài thay thế CIA.

Cuối 1961, các phúc trình báo động của Ban Thẩm lượng Tình Báo Quốc gia , National Intelligencve Estimate (hay NIE) thúc Kennedy dứt khoát chấm dứt công tác bán quân sự của CIA ở Bắc Việt và chuyển trách nhiệm qua Ngủ Giác Ðài. Sự thất bại đổ bộ tại Vịnh Con Heo, Bay of Pigs Cuba, ngày 28.6.1961 để mưu lật đổ Fidel Castro, càng chứng rỏ CIA bất tài. Tháng bảy 1962, McNamara triệu tập đại diện của Bộ Quốc phòng, Ban chỉ huy Thái Bình Dương, CIA, Bộ Ngoại giao và cơ quan MACV tại Honolulu nghiên cứu kế họach Operation Switchback. Tướng Harkins , xếp MACV – con gà nòi của Maxwell Taylor tại Sàigòn - tỏ ra rất lạc quan mặc dù cuối 1962, 300 du kích Việt cộng kháng cự thành công tại Ấp Bắc, Ðồng Tháp Mười, với Sư đoàn 7 Bộ binh của VNCH. Báo chí và công luận HK xao xuyến mạnh về trận đánh này.

TT Johnson cho thành lập SOG (1964) . Kế họach OPLAN 34A

Vì hệ thống biệt kích trên vĩ tuyến 17 do CIA sắp xếp nên cần có một giai đọan chuyển tiếp, CIA và Quân đội cọng tác. Giai đọan này kéo lằng nhằng cho đến 1964. Ngày 24.1.1964, Bộ Tư lệnh MACV tại Sàigòn ra công văn thành lập cơ quan Nghiên cứu và Quan sát SOG, để thi hành kế hoạch Operation Plan trên đất Bắc Việt. OPLAN 34A được TT Johnson chấp thuận, 4 ngày sau vụ ám sát Kennedy, chiếu đề nghị của McCone ,Mc Namara, Rusk, Bundy. và tướng Krulak. Kế họach này – do Partain, Woolard, McLane và Kingston liên tiếp phụ trách - gồm có 72 lọai biện pháp để thực hiện trong 12 tháng, nhằm 2,062 mục tiêu. Về sau, Giáøm đốc CIA William Colby có nhắc lại: "Lúc đó, tôi đã lưu ý McNamara các chiến dịch này không thể thành công. Quan điểm của phiá Quân đội (HK)ï là CIA hành động quá ít, quá chậm và không đi sâu được vào khối dân chúng ở Bắc Việt. Ðây là McNamara cổ điển: Các con số trả lời cho tất cả, Numbers are answers to everything! Ôâng ta tin rằng chỉ cần gia tăng ào ạt những cố gắng hoạt động bí mật thì sẻ gây rối lọan bên trong Bắc Việt và có thể buộc Hồ Chí Minh ngưng ủng hộ kháng chiến ở Miền Nam!" (đọc "Secret War" trang 36):

Kế họach OP 34 tổ chức bốn toán biệt kích mang bí danh Bell, Remus, Tourbillon và Easy, tổng số gồm lối 30 người . Toán thứ năm, Europa, được CIA đưa ra Bắc vào tháng hai 1962, đã ngưng liên lạc bằng ra-dô và coi như mất luôn. Ngoài ra, CIA còn xử dụng một gián điệp viên có bí danh Ares. CIA cũng trao lại cho SOG trại Long Thành đang huấn luyện gần 169 cán bộ và một vài trụ sở ở trung tâm Sàigòn. McNamara và Hoa Thịnh Ðốn hối thúc SOG bắt tay vào việc. Từ tháng 4.1964 cho đến tháng 10.1967, gần 250 biệt kích chia thành 30 toán, được gài thêm vào Bắc Việt. Nếu cọng với số người của CIA họat động sẳn thì tổng số lên đến 500. Cuối 1967, có tấùt cả 7 toán đặc công: Remus, Tourbillon, Easy, Eagle, Hadley, Red Dragon, Romeo, và một gián điệp mang tên Ares. Năm 1968, cơ quan DIA, Defense Intelligence Agency, trong đó có cả đại diện CIA, tổng xét thành quả và kết luận bi quan rằng phiá địch, trong gần bảy năm, chẳng những phá vỡ được các toán nóí trên mà còn xử dụng họ chống lại Miền Nam dưới nhiều hình thức (phản gián, thông tin xuyên tạc, phỉnh gạt....).

Các toán đặc nhiệm được đưa ra Bắc Việt vào những lúc khác nhau, không họat động chung một chổ, đảm nhận công tác riêng biệt và không liên lạc với nhau vì cần bảo mật tối đa : Toán Tourbillon, tại vùng Tây Bắc từ tháng 5.1962, để phá hoại và lấy tin – Toán Easy tại Sơn La từ tháng 8.1963, để liên lạc với sắc dân Mèo-Thái, tổ chức họ chống chính phủ – Toán Remus, trong vùng Ðiện Biên Phủ, từ tháng tư 1962, để thiết lập căn cứ và làm tình báo – Toán Eagle, gần biên giới Hoa Việt, vào tháng 6.1964, để tìm cách phá hoại hai con đường số 1 và 4, thiết lộ Nam Quan và sân máy bay Mai Pha – Toán Romeo, ở phiá Bắc khu phi chiến DMZ , từ tháng 11.1965, để theo dỏi các đoàn quân xa trên quốc lộ 103 – Toán Haddley, cũng ở phiá Bắc DMZ, để quan sát sự di chuyển của địch trên quốc lộ 8 nối liền với các trục giao thông số 15, 81, 12 và 121 dẫn sang Lào. – Sau hết, toán Red Dragon, từ tháng 9.1967, để hoạt động phá hoại và thông tin trong hai tỉnh Lào Cai và Yên bái.

Giai đọan Nixon. Hoa kỳ rút quân. Kế hoạch OP 35 chấm dứt (30.4.1972)

Ðầu năm 1969, TT Nixon nói với Bộ Tham mưu: "Tôi sẽ chấm dứt chiến tranh. Mau chóngï." Ông gởi thông điệp cho Hànội đề nghị BV và HK đồng rút binh khỏi Miền Nam. Ðể gây áp lực, Nixon cho thả bom các đặc khu CSVN tại Miên. Hànội không nao núng, xua thêm quân vào dưới vĩ tuyến 17 và tuyên bố sẽ kiên trì đàm phán ở Hội nghị Paris "until the chairs rot, cho đến khi ghế mục!" Nixon ra lệnh cho Kissinger nghiên cứu trả đũa bằng cách phong tỏa các hải cảng địch và gia tăng oanh tạc BV. Nhưng Kissinger lại đề nghị "việt nam hoá" chiến tranh. (còn gọi là jaunissement, yellowing the war). Tháng mười .1968, chuyên gia Anh chống du kích Sir Robert Thompson – từng thành công dẹp lọan tại Mã Lai trong thập niên 50 và đã giữ vai trò cố vấn ở VN từ 1961 đến 1965 theo lời mời của Kennedy - đưa ra giải pháp này và cho biết Miền Nam, với một triệu quân tại ngũ, có thể, trong vòng hai năm, tái lập hoà bình nếu Mỹ tích cực giúp Chính phủ Sàigòn về vũ khí và kinh tế. Theo Thompson, chi phí viện trợ này vẫn còn rất rẻ vì dưới thời Truman, Mỹ đã xài tới 150 tỷ đô la. Trên thực tế, đây chỉ là một giấc mơ vì thời hạn hai năm quá ngắn. Hơn nửa, năm 1970, Nixon cho rút 150,000 lính Mỹ, bất chấp MACV báo động quyết định này sẽ gây khó cho thủ tục việt nam hoá.

Tháng hai 1970, dưới sự chỉ huy của Ðại tá Don Schungel, những toán thám thính Prairie Fire. thuộc kế hoạch OP 35, thực hiện 441 chuyến ï quan sát tại Lào, dọc đường mòn Hồ Chí Minh. và gặp sự chống cự mãnh liệt của các toán truy nã, tracker teams, Bắc Việt. 12 quân nhân Mỹ tử vong , 98 bị thương và 4 mất tích.

Tại Cam bốt, trong 4 tháng đầu năm 1970, kế họach thám sát Salem House khám phá BV lập nhiều căn cứ đột nhập và trạm tiếp viện gần biên giới Miên-Việt. Ngày 18.3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Cuộc hành quân hổn hợp Mỹ-Viêt mang tên Operation Bình Tây trên đất Miên phá hủy, ít nửa tạm thời, hệ thống quân sự địch. Ngày 1.5.1970, sinh viên phản chiến của Kent State biểu tình chống đối rầm rộ ở Ohio. Tiếp theo , dân chúng xuống đường tại Washington. Kết quả là, kể từ 30.6.1970, cơ quan MACVSOG không còn được phép dùng biệt kích Mỹ trên đất Miên. Tổng kết, chiến dịch Salem House đã thực hiện 577 lần xuất quân. Tất cả – trừ 19 – có tính cách thám sát.

Ðể chuẩn bị tái ứng cử Tổng thống năm 1972, Nixon lấy một quyết định ngoạn mục: cắt đường mòn Hồ Chí Minh tại Lào dài theo quốc lộ 9 và tiêu hủy cơ sở BV trong vùng. Tướng Creighton Abrams, tư lệnh MACV, đề xướng chiến dịch Lam Sơn 719 do hai tướng Hoàng Xuân Lãm và James Sutherland điều động. Skip Sadler, người chỉ huy chót của MACVSOG, nói với tướng Lãm: " Mối lo lớn nhất của tôi là làm cách nào ông sẽ rút khỏi địa ngục này." Ðể dọn đường cho chiến dịch và đánh lạc hướng đối phương, các đội đặc công SOG thả dù những hình nộm , chất nổ và truyền đơn ở phiá Tây Khê Sanh và trong thung lủng Ashau nhưng tướng Võ Nguyên Giáp không để bị gạt và sẳn sàng ứng chiến với 4 sư đoàn chính quy. Lam Sơn 719 bắt đầu ngày 8 tháng hai. Sau 6 tuần chiến đấu, Quân đội VNCH tổn thất 50% và Việt cộng kiểm soát được phần đất phiá tây của Quân khu 1 và vùng DMZ. Con dường tiến về Huế không còn bị ngăn. BV chuẩn bị tổng tấn công vào mùa Phục sinh 1972.

Ðại tá Roger Pezzelle, người chỉ huy cuối cùng kế hoạch đặc công OP 35, than phiền bị Hoa Thịnh Ðốn bó tay vì từ nay, mổi lần hành quân thám sát tại Miên hay Lào đều phải xin phép trước ba hôm Bộ Tham mưu Liên Quân HK ngang qua MACV. Chán nản, ông nói: "Isn’t it ridiculous?". Ngày 30.4.1972, bằng một thông cáo, Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương ra lệnh chuyển giao tất cả chương trình SOG cho Nha Giám đốc Kỹ thuật Chiến lược của VNCH. Từ tháng giêng đến cuối tháng ba, tai mắt của MACV trên lãnh thổ CS không còn nửa.

Kinh nghiệm từ một sự thất bại. Vai trò tương lai của chiến tranh bất quy ước

Ðến nay, về cuộc chiến âm thầm chống Bắc Việt, có nhiều phóng sự giật gân của tác giả ngoại quốc hay hồi ký phiến diện của một số cựu biệt kích từng bị CS giam cầm. Xuyên qua hồ sơ vừa được Bộ Quốc phòng bạch hóa - có thể chưa nói hết - thế giới nhận rỏ hơn vì sao Hoa kỳ thua ở VN về cà hai mặt, chiến tranh quy ước và chiến tranh bất quy ước. Những lý do nào khiến Mỹ thất bại trong chiến tranh thứ hai?

1 – Thiếu chủ trương thích ứng, đồng nhất và liên tục, thiếu lãnh đạo ở cấp chóp bu. Eisenhower dùng chiến tranh mật như một lợi khí hệ trọng để thắng thế trong Chiến tranh lạnh. Kennedy, quá lý tưởng, áp dụng các phương pháp chiến tranh mật một cách năng nổ nhưng không nghiên cứu kỹ quyết tâm và phản ứng của địch. Ðể cứu vản chương trình chấn hưng xã hội "The Great Society" của ông tại Mỹ và vì bị xô đẩy bất thần vào một tình trạng khủng hoảng sau cái chết của Diệm và Kennedy, Lyndon Johnson thận trọng đối phó với Hànội theo đường lối "graduated answer/graduated pressure, trả lời/gây áp lực tùy thời " . Chính sách "gà nuốt giây thung" này bó tay SOG. Với Nixon, covert action, cuộc chiến đấu âm thầm là một chiến thuật để thoát khỏi bế tắc đối ngoại. Nói tóm tắc, HK đánh mà không muốn thắng, Công luận HK không đủ nhẫn nại để chiụ đựng một cuộc chiến dai dẳng. Ấn tượng Nga- Tàu ám ảnh không thôi Hoa Thịnh Ðốn.

Mặt khác, CIA thất sủng không hết lòng côïng tác với SOG trong giai đoạn chuyển tiếp 1962.- 1964. Nghiêm trọng hơn, các Tư lệnh liên tiếp của MACV, từ Paul Harkins, Maxwell Taylor, William Westmoreland cho đến Creighton Abrams, vẫn coi chiến tranh quy ước là biện pháp hữu hiệu duy nhất và. không tin chiến tranh mật giải quyết được gì. Quân đội từ chối sáp nhập SOG vào các kế họach chiến tranh. Ngoài ra, Ðại sứ HK William Sullivan tại Vientiane không mấy sốt sắng giúp biệt kích SOG độât nhập Lào để khuấy phá đường mòn Hồ Chí Minh, viện lẽ Hiệp ước Genève 1962 đã trung lập hoá nước này. Cấp chỉ huy cơ quan SOC – Blackburn, Singlaub và Cavanaugh - than phiền thái độ dè dặc của Sullivan gây khó khăn cho họ không ít.

2 – Thiếu sự huấn luyện và kinh nghiệm tâm lý cần thiết. Thuyết chiến tranh bất quy ước, unconventional warfare doctrine, đến nay vẫn được xem như một phần ăn khớp với chiến tranh nóng và không có vai trò then chốt trong chiến tranh lạnh. Du kích không có mặt trận. Có nhiều khác biệt sâu rộng giữa những gì Special Warfare School tại Fort Bragg dạy suốt 15 tuần lễ cho các sĩ quan thuộc Lực lượng Ðăïc biệt và thực tế chiến trường ở Bắc Việt trong phạm vi thám báo, chiến tranh tâm lý, chống khủng bố, phá hoại hậu cần địch, phương thức để sống sót trong nghịch cảnh..vv..Công tác tiếp vận các toán xung kích vượt tuyến vấp phải muôn vàn trở ngại. Chương trình huấn luyện, tổ chức theo lối Mỹ tại các trường biệt kích Thủ Ðức và Long Thành, không thích ứng vói nhu cầu chiến lược và chiến thuật. Chính phủ Miền Nam không có tiếng nóí quyết định trong các cuộc hành quân bên kia vĩ tuyến. Ai chi địa thì chỉ huy! Nội gián len lõi vào bộ máy đánh giặc phíùa quốc gia. Ðể làm việc với đồng minh Mỹ về biệt kích, Chính phủ Sàigòn có Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống (thời Ngô Ðình Diệm) đổi thành Nha Kỹ thuật năm 1963, do một sĩ quan cấp tá chỉ huy: Lê Quang Tung, Trần Văn Hổ, rồiVương Văn Ðông (được lối 3 tháng), sau hết Ðoàn Văn Nu.

Nói tóm tắc, Mỹ thua chiến tranh quy ước lẫn bất quy ước vì dốt tâm lý Á châu, không nắm vững chiến thuật du kích, ngạo mạn, thẩm lượng sai ảnh hưởng của Bắc kinh và Mạc tư khoa đối với Hànội, đoán trật quyết chí của CSVN và coi thường đồng minh Việt Nam Cọng hoà. Miền Nam là con cờ thí trong chiến lược toàn cầu Hoa kỳ. "Ðất nước có thể tránh được chăng số mạng hẩm hiu nếu nhà cầm quyền ở Sàigon, thay vì vọng ngoại, biết sáng suốt tạo một cái thế dân tộc vững chắc và chọn con đường dân chủ thích hợp? ", người quốc gia vẫn tự hỏi như thế, tuy đã chậm. Dĩ vãng, dù sao, cũng là ông thầy tốt nếu không uổng phí bài học quá khứ.

Hiện không có thống kê chính thức về số cãm tử quân hy sinh tại BV. Phỏng chừng 500 người mất tích. Riêng kế họach OP 35 gồm có ba toán tổng cọng 110 sĩ quan và 615 đặc công.Trong mỗi đội thám sát có ba người Mỹ và 250 Việt. Từ tháng hai đến tháng tư 1973, Hànội phóng thích 591 tù binh HK, không có sĩ quan SOG nào. Vận mệnh của những chiến sĩ đặc nhiệm ra sao? Thời Kennedy, tổng nhân số Lực lượng Ðặc biệt lên đến 10.000 người. Thập niên 70, sụt xuống còn 3.600. Chính quyền Mỹ muốn quên họ đi, viện lẽ.... không có tuyển mộ họ công khai.(!). Theo Sedgwick Tourison ,tác giả quyển sách "Secret Army, Secret War", nxb Marine Institute, 1994, nhờ Ðại sứ HK David Lambertson ở Bangkok can thiệp mạnh, 15 người, cựu biệt kích VN đầu tiên được Sở Di cư và Nhập tịch cho vào Mỹ năm 1995. Gần đây, Quốc hội biểu quyết trợ cấp 40.000 đô cho mỗi người.


******

Chiến tranh lạnh đã chấm dứt, chiến tranh nóng phản ý nguyện hoà bình của nhân loại. Hai nhóm chủ trương và chống đối chiến tranh bí mật vẫn tranh luận sôi nổi. Thời thế mới, - nửa lạnh nửa nóng -, đòi hỏi biện pháp mới, thực tế và hữu hiệu hơn. Răn đe suông hay xử dụng bừa bải võ khí tối tân không thích hợp. Tháng 11.1986, thời TT Reagan, Quốc Hội Mỹ biểu quyết thành lập SOCOM, US Special Operations Command. Cơ quan này, đặt dưới quyền điều khiển của một tướng bốn sao, có trách vụ thảo hoạch đường lối và chăm lo các vấn đề huấn luyện, điều nghiên kế hoạch và .trang bị các lực lượng tác chiến đặc biệt, special operations forces hay SOF. Nói cách khác, chính quyền HK công nhận cần tổ chức và xử dụng chiến tranh bí mật để đối phó những trường hơp "tranh chấp có cường độ thấp, low intensity conflicts hay LIC", thường xảy ra ngày nay trên địa cầu với nhóm quốc gia bất trị (còn gọi là "nước du côn, rogue nations") thích xử dụng vô tội vạ khủng bố, vũ khí giết số đông và xúi dục phiến lọan. Rắn rít độc hại hơn khủng long. Ngoài ra, sắc tộc, tôn giáo và tội ác có tổ chức cũng gây bất ổn dễ dàng. Tài khóa 1987, SOF nhận được 1,6 tỷ trong ngân sách quốc phòng 300 tỷ đô. Thời hậu chiến tranh lạnh khó kiểm soát hơn cả chiến tranh lạnh. Rối rấm có thể nổ bất luận ở đâu, lúc nào, vì mọi lý do.

Trong tương lai, về an ninh, Hoa kỳ sẽ trực diện nhiều thách thức quốc tế mới. Cần điểu chỉnh và cập nhật hoá thường xuyên tân chính sách, chiến lược và phương tiện. Hoa Kỳ cũng sẽ gặp trở ngại và phiền toái gây thất vọng như ở Việt Nam. Kinh nghiệm đã qua giúp siêu cường này không tái phạm sơ suất củ. Mong lắm thay!

LÂM LỄ TRINH

Ngày 9.5.2001

Thủy Hoa Trang

THƯ TỊCH

• "The Secret War Against Hanoi" của Richard H. Shultz, JR. Harper Collins Publishers, 2000
• "Secret Army, Secret War" của Sedgwick Tourison, Marine Institute Publ. 1994
• "Early Covert Action on the Ho Chí Minh Trail" của Ken Conboy & James Morisson in VIETNAM, August 2000
• "Project Delta Disaster" của Ken Conboy & J. Morrison in VIETNAM, October 2000
• "Việt Nam, Histoire secrète d’une victoire perdue", par William Colby, Perrin , Paris , 1989

Tuesday, August 18, 2009

Anh Hùng và bội phản



 Trung Tá Trần Ngọc Huế Diển Hành tại D.C.

Chuyện Trò Cùng Ðồng Ðội:


Anh hùng và bội phản


Monday, April 07, 2008
Huy Phương

Trước tháng 4 năm 1972, Trung Tá Trần Ngọc Huế và Trung Tá Phạm văn Ðính đều là hai anh hùng của Quân Lực VNCH, cả hai đều đã từng chỉ huy đơn vị tinh nhuệ của SÐ IBB là Ðại Ðội Hắc Báo. Năm 1971, Trung Tá Trần Ngọc Huế là Tiểu Ðoàn Trưởng TÐ 2/2 đánh vào Shépone trong cuộc hành quân Lam Sơn 719.
Vị trí của ông đã bị cộng sản tràn ngập và ông bị bắt làm tù binh và bị đưa ra Bắc và ở trong nhà tù 13 năm. Kẻ bội phản là cựu Trung Tá Phạm Văn Ðính, Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 56 (Sư Ðoàn 3BB) tại căn cứ Tân Lâm (Carrol), cuối tháng 4, 1972 đã đầu hàng trước quân đội, không những chỉ đầu hàng mà Trung Tá Ðính đã theo giặc, vì sau đó ông đã lên đài phát thanh Hà Nội kêu gọi các chiến hữu ngày trước của ông buông súng theo “cách mạng” và đeo “quân hàm” trung tá của “Quân Ðội Nhân Dân”.
Ông “được” cộng sản cho làm “quản giáo” tại một trại tù (học tập cải tạo) đang giam giữ những chiến hữu của ông ngày trước.

Sau tháng 4, 1975, ông “Trung Tá” Phạm Văn Ðính vào miền Nam, nhưng sau đó không nghe nói ông nắm đơn vị nào trong quân đội Bắc Việt. Tôi nghĩ dù ngày nay miền Nam đã bị cộng sản thôn tính, dân chúng Huế-Thừa Thiên cũng như người miền Nam đã nhìn ông với đôi mắt ghẻ lạnh, cho đến khi ông qua đời, không biết ông có ngượng ngùng với cái cấp bậc trung tá ông đeo trên cổ áo hay không.
Sau năm 1975, tôi nghe những người cộng sản gọi những nhân vật trong hàng ngũ “chiêu hồi” là những kẻ “đầu hàng phản bội”, không biết họ dùng danh từ gì để gọi ông Trung Tá Phạm Văn Ðính.

Andrew Wiest là một giáo sư sử học tại Ðại Học Southern Mississippi, tác giả nhiều cuốn sách về chiến tranh, trong đó đã có hai cuốn viết về Việt Nam như “The Vietnam War, 1956-1975” (2002), “Rolling Thunder in a Gentle Land: The Vietnam War Revisited” (2006). Năm nay (2008), ông vừa xuất bản một cuốn sách nhan đề “Vietnam's Forgotten Army- Heroisme anh Betrayal in the ARVN” để nói đến hai nhân vật Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Ðính.
Thoạt đầu người ta giới thiệu Trung Tá Phạm Văn Ðính với ông, cuộc đời của một sĩ quan xuất sắc của VNCH trở thành một kẻ bỏ súng chạy theo địch quân là một đề tài khá hấp dẫn để trở thành một cuốn sách hay về chiến tranh Việt Nam. Giáo Sư Andrew Wiest đã mời ông Phạm Văn Ðính sang New Orleans Hoa Kỳ và tổ chức các buổi nói chuyện tại các đại học Hoa Kỳ về đề tài chiến tranh Việt Nam, tuy nhiên ông đã được sự góp ý của nhiều giới chức Hoa Kỳ hủy bỏ dự định này. Các sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ hiện nay đã từng là cố vấn trong các đơn vị mà ông Phạm Văn Ðính phục vụ trước kia, đã giới thiệu đến tác giả Andrew Wiest, Trung Tá Trần Ngọc Huế, đã xuất thân từ những đơn vị tương tự như ông Ðính, nhưng đã xứng đáng hơn với danh vị anh hùng.
Cuốn sách được hoàn tất với cuộc đời của hai Trung Tá Trần Ngọc Huế và Phạm Văn Ðính với những chiến trận lớn tại Vùng I Chiến Thuật mà cả hai đều đã đổ máu cho miền Nam nhưng về sau quyết định của hai người đã đưa họ về những lối rẽ khác nhau.

Ở trong trại tù tập trung của cộng sản dựng lên đầy dẫy ở hai miền Nam Bắc sau tháng 4 năm 1975, các chiến hữu ngày trước của chúng ta cũng đã có rất nhiều anh hùng nhưng không thiếu kẻ bội phản.
Những anh hùng của chúng ta đã đứng thẳng trước kẻ thù, có người đã chấp nhận gông cùm và đã có người hiên ngang trước cái chết. Trong khi đó có những người gọi là bạn tù của chúng ta đã cam tâm chịu sự sai khiến của bọn cai tù, nhận những chức vụ “tay sai” để hành hạ, đánh đập anh em không thương tiếc, hoặc hèn hạ làm những tên chỉ điểm, mà chúng ta thường gọi chúng là “ăng ten”. Ra hải ngoại, những người cựu tù nhân chính trị cũng đã nhận định rõ, ai là anh hùng mà ai là những kẻ đầu hàng phản bội trong các nhà tù cộng sản trước đây, chỉ tiếc là những những người này cũng cùng đi một chuyến tàu với chúng ta đến đây, lẫn lộn trong cộng đồng này.
Tuy đã tha thứ nhưng thực là chúng ta không bao giờ quên những khuôn mặt này, và hy vọng họ sẽ thức tỉnh và biết thế nào là và sự khinh rẻ của đồng đội hay đồng bào dành cho những hành vị bội phản, nhất là trong bối cảnh của cộng đồng tỵ nạn cộng sản hiện nay đang manh nha những thái độ đầu hàng hay thỏa hiệp đáng khinh miệt.